Chuyện lỡ bữa cày

Bữa đó nhà có mấy tấm ruộng, tui muốn đi cày sớm nên dặn vợ chuẩn bị cơm nước để đi cày. Trời đã sáng chi mô, vợ tui đã làm sẵn cho một “bù nác” chè đặc với một mo cơm nếp xáo với khoai, mùi bay ra nghe thơm phức.

Tui khoái quá, liền lùa bò đi một mạch ra tận rú Ông Đồn, thấy trời vẫn chưa sáng tui cho bò ăn một chặp. Tui nghĩ trong bụng: Phải cày cho sớm, không thì sáng ra trời nóng lắm.

lo-bua-cay

Tui liền bắt bò đi cày, sờ từng con thấy con mô con nấy cũng láng cả, không biết con nào là con Ô con nào là con Dề. Tui mới bắt hai con vô cày. Mới đầu hắn đi rất mau, tui vừa đi vừa chạy mới kịp theo hắn. Lạ! Sao mà hắn đi mau dữ rứa? Hay là hắn được ăn thêm bữa khuya nên có sức đi mau! Chỉ mới loáng mà tui đã cày xong một vạt ruộng. Qua vạt thứ hai tui mới cày được mấy đàng tự nhiên hắn dừng lại không chịu đi nữa. Tui dạo tắc hắn cũng không đi, dạo rì hắn cũng ỳ ra. Tức máu quá tui mới quất cho mấy roi, hắn lồng lên làm cái cày đâm sâu xuống đất nghe kêu rắc rắc.

Tui nói: con bò Dề sáng ni răng mà trở chứng? Rồi hắn xây cái mặt lại với tui. Chằm vằm ra như cái mâm. Trời đã sáng tỏ, rõ ràng đây là cọp đực chứ có phải là bò Dề mô? Tui nói: Con cọp ni báo hại tau rồi. Sẵn cái rựa tui chặt một nhát làm cái niệt cày đứt làm đôi, tháo cho cọp chạy. Lão lủi một mạch lên rú Ông Đồn mà không dám ngoái cổ lại.

Rứa là hắn đã làm tui lỡ mất một bữa cày!

 

 

Thơ và lời bình – Trạng Vĩnh Hoàng

Nghe Chuyện Trạng Vĩnh Hoàng 

Bom hất sang sông đỡ tốn tiền đò
Đi bứt tranh bứt nhầm đuôi cọp
Người kể chuyện quả quyết rằng có thật
Ai chưa tin xin mời đến làng tôi.

Người kể chuyện xoè hai bàn tay
Săn mùi đất và chai lì vỏ hến
Người nghe chuyện thường say tán thưởng
Chẳng nghi ngờ câu chuyện của anh

Tôi đã nghe dễ đến trăm lần
Và tôi yêu như yêu màu đất đỏ
Yêu bao điều như hạt tiêu kỳ lạ
Yêu mắt nhìn sinh ngọn gió bình yên

Vĩnh Linh ơi từ địa đạo bước lên
Tưởng trắng rợn một  màu tang trắng
Ai ngờ dưới tro những câu  chuyện trạng
Lại lên xanh lấp lánh mắt cười. .
Một củ khoai phải luộc đến năm nồi
Chuyện như chẳng thể nào tin được
Nhưng đến Vĩnh Linh vốc lên từng  nắm đất
Hiểu thêm sự tích lạ lùng hơn.

Ngô Minh

LỜI BÌNH: TIẾNG CƯỜI LẠC QUAN CỦA MỘT VÙNG ĐẤT QUA BÀI THƠ“NGHE CHUYỆN TRẠNG VĨNH HOÀNG”

Chuyện trạng Vĩnh Hoàng (Vĩnh Linh) thì nhiều người đã nghe, nhưng chuyện kể vào thơ thì e rằng cũng hiếm. Đó là trường hợp bài thơ”Nghe chuyện trạng Vĩnh Hoàng” của nhà thơ Ngô Minh.

    Bom hất sang sông đỡ tốn tiền đò
Đi bứt tranh bứt nhầm đuôi cọp
Người kể chuyện quả quyết rằng có thật
Ai chưa tin xin mời đến làng tôi.

Nhà thơ đã nắm bắt được khẩu khí dân gian, đến cả giọng điệu, hơi thở của chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Tác giả cũng đã lựa chọn những chi tiết điển hình. Ngày xưa đi bứt tranh, gặp cọp ai không khiếp vía, hồn xiêu phách lạc. Vậy mà người dân Vĩnh Hoàng tỉnh bơ,”bứt nhầm cả đuôi cọp”. Sau này Vĩnh Linh là “túi bom” trong chiến tranh huỷ diệt của đế quốc Mỹ; và đạn bom nào phải chuyện đùa, sống chết trong gang tấc, nhưng chẳng hề gì, “Bom hất sang sông đỡ tốn tiền đò”- người Vĩnh Hoàng cười đùa trước hiểm nguy, thử thách. Tiếng cười dân gian vui nhộn, thoải mái, hào sảng đã hoá giải mọi điều ác, mọi tai ương; và chỉ có sức mạnh dân gian thâm hậu mới làm nổi điều này, làm nên bản lĩnh Vĩnh Linh- Quảng Trị. Tiếng cười lạc quan, tự tin đã mạnh hơn cái chết và làm nền cho sự sống đâm chồi. Nhà thơ đã đồng điệu và bắt nhịp được âm hưởng dân gian.

Người kể chuyện xoè hai bàn tay
Săn mùi đất và chai lì vỏ hến
Người nghe chuyện thường say tán thưởng
Chẳng nghi ngờ câu chuyện của anh

Tôi đã nghe dễ đến trăm lần
Và tôi yêu như yêu màu đất đỏ
Yêu bao điều nên hạt tiêu kỳ lạ
Yêu mắt nhìn sinh ngọn gió bình yên

Thì nào ai có nghi ngờ gì những câu chuyện trạng mang đậm chất Vĩnh Linh đã ngấm vào thịt da, máu tuỷ của người dân nơi đây. Chỉ có những con ngưới làm lụng kiên cường, bất khuất, yêu đất đai như con cái của mình và ”biết cười từ trong bào thai” mới biết sáng tạo ra chuyển trạng Vĩnh Hoàng, mới sinh hạ nên những nghệ sĩ dân gian làm rạng rỡ văn hoá quê nhà:

Vĩnh Linh ơi từ địa đạo bước lên
Tưởng trắng rợn một màu tang trắng
Ai ngờ dưới tro nhữmg câu chuyện trạng
Lại lên xanh lấp lánh mắt cười

Phép lạ của tiếng cười dân gian chính là ở đó. Trong mưa bom bão đạn, trong tang tóc rợn người thì tiếng khóc ra đời, âu cũng là điều dễ hiểu. Song kì lạ thay tiếng cười đã cứu rỗi mọi điều, đã đứng cao hơn tất thảy, thức dậy một niềm tin sự sống. Tiếng cười đã hoá thành một gia tài vô giá:

Nắng lè lưỡi mà mưa thâm trời
Như ngày nào đạn bom tối mặt
Tất cả sẽ ra đi, chỉ tiếng cuời trẻ nhất
Cha trao con như kỷ vật trên đời

Những ai từng sống, từng biết đến mảnh đất ”ô châu ác địa” hẳn sẽ thấu hiểu phần nào con người nơi đây phải chống chọi với “ giặc trời”- giặc ngoại xâm như thế nào để bảo toàn sự sống. Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ riêng tiếng cười là trẻ mãi không già. Có thể đời trướ không truyền lại cho đời sau nhiều của nả, nhưng hậu sinh được thừa kế những tiếng cười lạc quan như thế cũng đã giàu có về mặt tâm hồn. Đó là điều may mắn của một vùng đất, mà dẫu có bạc vàng cũng không thể mua bán được:

Một củ khoai phải luộc đến năm nồi
Chuyện như chẳng thể nào tin được
Nhưng đến Vĩnh Linh vốc lên ừng nắm đất
Hiểu thêm sự tích lạ lùng hơn

Chính sự nếm trải, sự đồng cảm đã khiến nhà thơ kết thúc bài thơ như một phát hiện sâu sắc, một kinh nghiệm sống quý báu. Luỹ thép Vĩnh Linh từng là niềm tự hào một thời không chỉ riêng của Quảng Trị, mà còn của cả nước.

Phạm Dũng

 

Những “Làng nói khoác” ở Việt Nam

Một người dắt củ sắn vào cạp quần, về đến nhà đã bở tung. Có cây rau muống to đến nỗi trèo lên ngọn cây nhìn thấy cả cột cờ Hà Nội. Làng có con lươn, thịt thì nướng chả, xương thì đẽo cày… Đó là những câu chuyện hàng ngày ở những làng nói khoác Việt Nam.

Theo thống kê, đất nước ta có hàng chục làng cười từ Nam đến Bắc. Mỗi làng có một đặc trưng riêng của văn hóa vùng miền. Chung quy lại, đó là những câu chuyện trào tiếu gây cười đến sảng khoái, thể hiện cuộc sống đa dạng, đa phong cách và cuộc sống tự do, lạc quan yêu đời của nhân dân.

Làng nói khoác Văn Lang

Văn Lang thuộc xã Văn Lương, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Đi theo Quốc lộ 32 chừng 75 km là đến đất Tam Nông, tôi tìm về với mảnh đất nổi tiếng này để biết thêm những giai thoại độc đáo mà tức cười. Một miền trung du Bắc bộ đầy màu xanh của lá cọ. Con người ở đây bình dị, gắn bó với những cây cọ. Đến cả mái nhà cũng chủ yếu lợp bằng cọ, nằm xen với những quả đồi thấp. Đi vòng vèo vài con đường, chúng tôi nhận ra ngôi làng vẫn nằm trong một vùng nguyên sơ, nghèo nàn, ruộng nương hạn hẹp.

images1Qua giới thiệu, chúng tôi được đám trẻ đưa đến nhà cụ Hán Văn Sinh, một người được coi là “Đại gia” của làng khoác. Cụ kể “Nơi đây được coi là khởi nguồn của của nền văn hoá lúa nước. Ngày đó, tất cả những sản vật nông nghiệp của làng đều tốt cả. Ai muốn cái gì tốt thì đều đến Văn Lang, gà tốt đến, xôi dẻo đến, cá to đến… Từ đó người dân cứ nói khoác các sản phẩm của mình lên nhằm ngợi ca những cái mình làm ra”.

Kỳ thực, cuộc sống của người Văn Lang đã làm nên cả một kho truyện cười độc đáo. Có chuyện một người dắt củ sắn vào cạp quần, về đến nhà đã bở tung. Chuyện mớ rau muống to đến nỗi trèo lên nhìn thấy cột cờ Hà Nội… Bằng sự khéo léo tài tình, người dân đã biết chuyển những đề tài tưởng như rất đời thường tưởng như chẳng có gì đáng nói như củ sắn củ khoai, mớ rau… thành hấp dẫn. Nguyên do thế nào? Tôi được cụ Sinh bảo rằng: “Cũng bởi thủ pháp phóng đại gây cười, cách kết thúc bất ngờ, ngôn ngữ nặng, khó nghe, lắm lúc ê a. Từ đó người ta đặt cho những cái biệt danh ngồ ngộ: Văn Lang cả làng nói khoác, Làng nói trạng…”

Kho chuyện cười của Văn Lang đã rất phong phú đa dạng. So với những làng cười khác như Vĩnh Hoàng (Quảng Trị); Trúc Ổ (Sơn Dương-Tuyên Quang); Đồng Sài (Bắc Ninh), truyện cười của Văn Lang đa dạng hơn nhiều, cả về tính dí dỏm lẫn đề tài. Người ta sẽ cười vì: Văn Lang có một con lươn, thịt thì nướng chả còn xương đẽo cày.

Những câu chuyện như: Tay ải tay ai, Con ếch cốm, Bác đi mua ‘nỏ’ lắm, Đỉa trâu, Củ sắn qua đường 24, Bưởi rụng chết trâu… đầy hài hước đều xuất phát từ làng này.

Chuyện nói khoác của Văn Lang bó hẹp trong phạm vi nhỏ. Thường được lấy từ những sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất của người dân. Cái điêu ngoa của họ không đáng ghét. Nó mang đến nụ cười, sự sảng khoái, tạo nên sự lạc quan trước những hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn. Nên cái điêu ngoa ấy là đáng yêu.

Cũng có những chuyện cười để bài trừ, đả kích những thói hư tật xấu của xã hội. Và vì thế mà chẳng bao giờ người dân dừng lại được những câu truyện đó. Trên cánh đồng gặt, vụ cấy hái, ngoài chợ, lúc nghỉ ngơi, bất kể lúc nào người dân cũng có thể nói để cười, để chia sẻ cho vơi bớt mệt mỏi. Điều đó chứng tỏ rằng “di sản” của họ vẫn được bảo tồn.

Làng trạng Vĩnh Hoàng

Làng trạng Vĩnh Hoàng thuộc xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị. Năm 1949, xã Vĩnh Hoàng được thành lập, trong đó có ba thôn là làng Huỳnh Công Đông, Huỳnh Công Tây, Huỳnh Công Nam nên chuyện trạng cả ba làng còn được gọi là chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Nay xã Vĩnh Hoàng đổi thành xã Vĩnh Tú.
lang-noi-trang-vinhhoang-2015Làng trạng Vĩnh Hoàng làm du lịch. Năm 2006, khu du lịch Thủy Ứ của làng trạng được khai trương, cách thị xã Đông Hà (Quảng Trị) chừng 50 km về phía bắc. Khu du lịch rộng, với những hồ nước xanh trong ngăn ngắt, những ngôi nhà mái lá đơn sơ lợp cọ dùng để cho khách nghỉ ngơi và có thể nghe… nói trạng. Ngoài ra du khách còn có thể câu cá thư giãn, dạo thuyền, tắm nóng lạnh…

Khu du lịch hiện nay do Hội Người khuyết tật xã Vĩnh Tú quản lý. Tiền thu được xung vào quĩ hội. Chúng tôi được chị Nguyễn Thị Hợi kể cho nghe câu chuyện thú vị thế này: Có một người đi câu cá, bắt một con cóc làm mồi. Đến hồ, ông lấy đà vút dây câu một cái thì không ngờ dây câu văng sang bờ hồ phía bên kia. Trong lúc không biết làm cách nào để gỡ lưỡi câu đang mắc vào bụi thì một con chim cuốc nhảy ra ăn con cóc. Khi đang kéo cuốc thì con chồn từ trong bụi rậm lao ra ngoạm con cuốc vào miệng, mắc phải lưỡi câu. Mừng quá ông kéo dây câu thì… “bụp”, một con cá đô (lóc) từ hồ lao lên đớp trọn con chồn. Con cá to quá, bà con xúm lại cùng nhau kéo con cá lên rồi dùng cuốc to để đánh vảy. Sau đó mỗi người được tặng một chiếc vảy mang về làm quạt. Mổ bụng con cá ra có cả chồn, mổ bụng chồn có cả chim cuốc, mổ cuốc ra có hơn chén tép, đủ làm bảy món liên hoan cả làng thật là vui… Nghe xong ai cũng òa cười.

Làng Vĩnh Hoàng xưa nghèo khổ, phải vật lộn với thiên tai, giặc giã để mưu sinh. Trên cuộc hành trình gian khổ đó, người dân có một vũ khí rất lợi hại để tự động viên mình, đó là chuyện trạng. Và trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, người ta đã sinh ra cả ngàn chuyện trạng, thành kho tàng đặc sắc. Đây là kho chuyện cười trào tiếu dân gian, cũng giống như chuyện cười của các làng trạng Bắc Bộ hay chuyện kể bác Ba Phi ở Nam Bộ.

Trong chuyến thăm làng trạng lần này, tôi đặc biệt ấn tượng với chuyện “Bắt nhầm cọp cày”, chuyện đã được vẽ thành tranh để bảo tồn. Nội dung như sau: “Đêm nớ, tui đi cày sớm, ra ngoài ràn (chuồng) bắt cặp bò đực cày đôi. Nhưng khi cài vào cày thấy con bò không chịu đi, tức quá tui lấy roi đập một cây vào lưng bò, con bò quay mặt dòm tui, thấy đực bò răng mà mặt mũi to đại chang, lạ quá. Tui tới sát coi cho kỹ. Té ra, đêm nớ cọp vô ràn bắt bò ăn thịt. Ăn xong, cọp chưa kịp ra khỏi ràn thì tui đã dậy đi cày quá sớm, bắt nhầm cọp cài vô cày mà không biết. Tức quá, tui mở dây cày ra, đập cho hắn một trận, hắn quá sợ, co bốn cẳng chạy vô rừng”.

Nói khoác kiểu Dương Sơn

Đất Kinh Bắc không phải chỉ có những làng nghề, làng Quan họ nổi tiếng, mà nó còn có những làng cười. Làng Quan họ chỉ tập trung ở một vài vùng nhất định, còn làng cười thì gần như huyện nào cũng có, ví như huyện Yên Phong có làng cười Đông Yên, huyện Tiên Sơn có làng cười Yên Tử, Hiên Ngang, huyện Yên Dũng có làng cười Đông Loan, Nội Hoàng, huyện Quế Võ có làng cười Đồng Sài, Trúc Ổ, huyện Tân Yên có làng cười Hòa Làng, Dương Sơn. Những ngày cuối năm, trong không khí chuẩn bị đón xuân, chúng tôi về làng Dương Sơn, một làng cười nổi tiếng, nơi đây con người mộc mạc, yêu đời và luôn biết làm cho cuộc sống của mình trở nên tươi đẹp.
hinh7451q_1298102711.
Người dân Dương Sơn nghĩ ra câu chuyện táo bạo, có thể làm sởn gai ốc của một số người nghe, đó là câu chuyện bắt hổ con: “Tôi đem hai con hổ con ra Hà Thành bán. Tiếng đồn đến tai ông Trưởng phường xiếc Tạ Duy Hiển, ông ta mời tôi vào nhà đãi làm thượng khách rồi đặt mua con hổ, tôi nhận tiền ra về. Tìm được hang hổ con mọn, tôi chui vào, rón rén bò qua đến chỗ hổ bố ngủ, tôi nhổ trụi râu nó, nó buồn quá lại càng ngủ say… Vượt qua hổ bố, tôi lần đến chỗ hổ con, bịt mũi đem ra, hổ bố vẫn gáy phe phe…”. Chuyện này người Hòa Làng không hề có.

Hay như chuyện một người dân Dương Sơn gặp một người Hòa Làng, họ nói chuyện với nhau. Người Hòa Làng nói:

– Da vợ mình thật trắng khủng trắng khiếp, trắng từ chân lên đến cổ. Cô ấy mà xắn quần lên thì thôi, ai muốn gọi là đùi cũng được, ai muốn gọi là khúc sắn bóc vỏ cũng được…
Người Dương Sơn bèn chen ngang:
– Thế đâu đã trắng bằng vợ tớ. Tớ nhớ, hồi máy bay Mỹ còn đánh phá khắp nơi, hôm ấy vợ mình đi ăn cưới, cô ấy diện chiếc áo pôpơlin Nhật trắng, mới nguyên. Đang đi giữa cánh đồng thì nghe tiếng máy bay, cô ta đang trên đường chạy tới bờ mương để nấp thì những người ở dưới mương đã kêu lên: “Cởi ngay cái áo ra, không máy bay nó trông thấy mất, cởi ngay ra, cởi ngay ra”. Nghe vậy cô ấy vừa chạy vừa cởi áo. Nhưng vừa cởi áo xong mọi người ẩn dưới lòng mương lại gào to hơn: “Mặc áo vào, mặc ngay áo vào, không nó bắn chết cả đám bây giờ!”. Cậu thấy không, da vợ tớ trắng đến thế kia mà!.
Đúng là người Dương Sơn nói khoác gấp ba những làng nói khoác khác.

Ông Nguyễn Văn Thiết năm nay đã 80 tuổi, một người có nhiều năm nói khoác tâm sự: “Dòng họ chúng tôi, đến đời tôi là 7 đời nói khoác. Điều này không nhằm ý gì khác là sự vui vẻ, lạc quan với tính hai hước của người nông dân. Với lại, do cuộc sống kinh tế nghèo nàn, những câu chuyện nói khoác là để xua đi cái sự chật vật cố hữu, thể hiện cái khát vọng no đủ…”. Đến con cháu của ông Thiết, đi ra Hà Nội học cũng mang theo “cây nhà lá vườn”, khiến cả lớp họ được nhiều phen cười đến… vỡ bụng.

Về Dương Sơn, nếu đúng dịp đầu xuân tổ chức thi nói khoác thì thật vui. Các cụ bảo cuộc thi vui vẻ đó đôi khi diễn ra từ sáng đến tối. Ngày xưa những bậc lão thành của làng, với vốn kinh nghiệm dân gian, chuyện khoác “đầy mình” nên không thanh niên nam nữ nào thắng được. Giờ các cụ chủ yếu truyền đạt kinh nghiệm cho con cháu, còn phần thi giành nhiều cho bậc trung niên và thanh niên. Các cụ các ông là những “cây” nói khoác phải kể đến các cụ Nguyến Chí Bao, Trần Mãi, các ông Nguyễn Đình Đại, Nguyễn Đình Vinh…

Cuối ngày, chúng tôi về nhà ông Nguyễn Đình Vinh, xin ông vài chuyện nữa để mang về quê… ăn Tết. Nào ngờ khi nghe ông nói, mải nghe, mải nghĩ quên mất cả ghi, may mà còn cái máy ghi âm. Ông Vinh khoe: “Năm ngoái tôi bắt được một con ếch, ăn thịt hai năm mới hết”. Tôi không tài nào đoán được chuyện có ý nghĩa gì, giải thích ra sao thì ông Vinh tiếp: “Đêm 30 cầm đèn qua bờ ao, bắt được một con ếch to về làm thịt, bắc mâm ra còn là năm cũ, ăn qua giao thừa sang năm mới mới hết. Thế chẳng là con ếch ăn hai năm mới hết là gì?”

Chuyện cười là kho tàng của những người nông dân còn lam lũ, vất vả nhưng vẫn lạc quan, sống bằng tiếng cười. Đó là cái hồn quê, mộc mạc của người dân Việt Nam ta.

Theo Vietimes