Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.

nghia-trang-01

Đến Quảng Trị mà chưa lên Nghĩa Trang Trường Sơn coi như chưa đến mảnh đất này. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.

nghia-trang-02

Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê chuẩn dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng Trị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã anh dũng hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường  Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang được khởi công xây dựng vào ngày 24/10/1975 và hoàn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy xây dựng là Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá xã Hoà Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.

nghia-trang03

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ; có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và mạng đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m2. Phần đất mộ được phân thành 10 khu vực chính.

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của các chiến sĩ đã hy sinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Đây là một công trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mô nhất có tính nghệ thuật cao, thể hiện lòng thương nhớ sâu sắc, niềm biết ơn và sự tôn vinh thầm kín của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với những người con yêu quý trên mọi miền đất nước đã không tiếc máu xương cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước.

Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959 – 19/5/1999), Đảng và Nhà nước đã quyết định cho nâng cấp, tôn tạo lại nghĩa trang  Trường Sơn bao gồm nhiều hạng mục: Cổng vào nghĩa trang  Trường Sơn, hệ thống đường và tường bao quanh, mô hình sở chỉ huy, biểu tượng của các địa phương, các cụm tượng, hệ thống thoát nước, điện nội bộ, trồng cây xanh xung quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghi công…Đến nay tất cả các hạng mục của các công trình về cơ bản đã được hoàn tất.
nghia-trang-04

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các anh hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn không chỉ là nơi để các gia đình liệt sỹ, các đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước, chính quyền các địa phương đến viếng thăm và thực hiện công việc đền ơn đáp nghĩa mà còn là nơi hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nước và bạn bè quốc tế theo truyền thống đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam: uống nước nhớ nguồn.

Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên thường xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sỹ, các đoàn khách trong và ngoài nước đến thăm viếng.

https://www.youtube.com/watch?v=sQ-BJ5Gr47s&feature=youtu.be

Dốc Miếu – Quảng Trị, căn cứ điểm quan trọng

Di tích lịch sử Dốc Miếu. Nằm phía Đông Quốc lộ 1A, căn cứ quân sự Dốc Miếu thuộc xã Gio Phong- Gio Linh, cách Cầu Hiền Lương chừng 7 km về phía nam. Dốc Miếu là đồi đất bazan nằm trong vùng địa hình 3 con dốc chạy ngoằn ngoèo. Ngay từ năm 1947, để án ngữ Quốc lộ 1A, thực dân Pháp đã lập đồn đóng chốt quân sự ở đây gọi là đồn Ba Dốc. Địa lợi đến vậy, đến lượt người Mỹ, khi lập căn cứ quân sự chiếm đỉnh cao ở đây từng ”ngạo nghễ” tuyên bố: “Đây là pháo đài bất khả xâm phạm”.

doc-mieu-01Tượng đài tại cao điểm Dốc Miếu- những người con của đất mẹ đã chiến thắng “Hàng rào Điện tử McNaMaRa”

Để ngăn chặn mọi sự chi viện từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, địch bố trí trên phòng tuyến nhiều căn cứ quân sự mạnh nối từ bờ biển xã Gio Hải lên đến Bến Ngự, Dốc Sỏi, Dốc Miếu, Cồn Tiên, kéo qua căn cứ Bải Sơn, Động Tròn đến Tân Lâm, Đầu Mầu cùng phòng tuyến bảo vệ Đường 9 lên tận biên giới Việt- Lào.

Trên phòng tuyến đó, Mỹ ngụy xây dựng hệ thống hàng rào điện tử Mc Namara (mang tên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ), gồm 12 lớp kẽm gai chồng nhau cao 3 m, trên mặt hàng rào có cài mìn tự động, phía dưới hàng rào là bãi mìn dày đặc rộng hàng trăm mét. Ngoài ra, địch còn rải hệ thống “ cây nhiệt đới” là loại phương tiện thông tin nhạy bén nhằm phát hiện mọi xâm phạm trong phạm vi phòng tuyến. Ở các cứ điểm có hệ thống đèn pha cực mạnh để kiểm soát chống mọi sự xâm nhập vào ban đêm. Cùng với hệ thống “ mắt thần điện tử”, kiểm soát mọi chuyển động là đội ngũ binh lính “hồn ma biên giới”, bọn biệt kích được huấn luyện công phu, thiện nghệ thường xuyên len lỏi vào hành lang của ta để chống phá mọi hoạt động của du kích.

Dốc Miếu được coi là cứ điểm quan trọng nhất của phòng tuyến Mc Namara. Ở đây địch xây dựng hệ thống hầm nhà vòm, hệ thống lô cốt di động bằng bê tông và trận địa pháo mặt đất hướng bắn ra bờ Bắc sông Bến Hải, có trận địa phòng không 37, trung tâm điều khiển bảo vệ hàng rào, chi đội thiết giáp tuần tra cùng nhiều đại đội hổn hợp Mỹ – ngụy. Xung quanh căn cứ ngoài các hàng rào kẽm gai dày bom mìn là hệ thống máy móc báo động chống xâm nhập.
doc-mieu-02

Tuy là một căn cứ hiện đại, nhưng hàng rào điện tử đã dần dần bị vô hiệu hóa trước những mưu trí chiến lược của ta. Quân ta đã tấn công và lần lượt phá hủy từng đoạn, đưa lực lượng và vũ khí vào chiến trường. Lực lượng du kích ngày đêm khống chế không cho địch tự do hoạt động bằng cách vây ép bắn tỉa…Trong những ngày đầu năm 1972, quân và dân ta đồng loạt nổi dậy nổ súng vây chặt, bắn hàng trăm quả đạn DKD, A12 và bom phóng vào căn cứ. Sau ba ngày tấn công, đêm 31/3/1972, lực lượng địch buộc phải tháo chạy, bỏ lại đồn bốt, công sự cùng với hệ thống hàng rào điện tử hiện đại.

Ngày nay, địa danh dốc Miếu – Cồn Tiên lại trở thành tài sản quý, một di tích hấp dẫn du khách trong hành trình tour du lịch DMZ của Quảng Trị. Nơi đây, sừng sững trên đỉnh đồi cao là một tượng đài chiến thắng ghi công các chiến sĩ giao liên đã góp phần đập tan hệ thống pháo đài Dốc Miếu – Cồn Tiên. Dưới chân tượng đài chiến thắng là các đồi cây cao su nối dài tít tắp, minh chứng cho cuộc sống đang hồi sinh mạnh mẽ trên mảnh đất một thời bom lửa. Nhìn từ tượng đài chừng 7 km về phía Bắc là di tích đôi bờ Hiền Lương, một biểu tượng của khát vọng thống nhất non sông, khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Tôi là người Quảng Trị

18 năm xa quê trôi qua, tôi bây giờ là dâu Sài Gòn, là mẹ của hai con, bị đồng hóa nhiều thứ, nhưng có một thứ không thể nào bỏ được, đó là chất giọng miền Trung nằng nặng của quê mình.

Mùa hè năm 1997, tôi đặt chân vào TP HCM và bắt đầu cuộc sống sinh viên đại học. Tôi thực sự khổ sở vì cái tiếng trọ trẹ của mình. Bạn cùng lớp mắt tròn mắt dẹt nghe không hiểu, nên tôi phải cố gắng nói thật chậm, bớt đi từ địa phương. Cái lưỡi của tôi phải uốn muốn mỏi. Nhưng tôi tự hào vì cái tiếng trọ trẹ dễ thương ấy.

toi-la-nguoi-quang-tri

Thấm thoắt mà đã 18 năm trôi qua, tôi bây giờ là dâu Sài Gòn, là mẹ của hai con, bị đồng hóa nhiều thứ, nhưng có một thứ tôi không thể nào bỏ được. Đó là chất giọng miền Trung nằng nặng của quê mình. Mặc khách hàng hay bạn bè kêu ca, muốn tôi tập tành nói giọng Nam, nhưng tôi thật xin lỗi, bởi nó đã ăn vào máu mất rồi, không bỏ được. Tôi chỉ có thể bớt ít nói “răng”, “mô”, “tê”, “ri”, “rứa” thôi…

Mỗi khi có ai đó hỏi: “Em là người Huế à?”. Tôi lại ưỡn ngực, cười toe toét: “Không, em là người Quảng Trị”.

Ừ, tôi là người Quảng Trị. Cái xứ cằn cỗi mà người ta còn ví chó ăn đá, gà ăn sỏi, cái xứ mùa đông mưa dầm thối đất, mùa hè gió lào từng cơn rát bỏng…

Ừ, tôi là người Quảng Trị. Nơi đó có ba mẹ tôi mỗi ngày vẫn cần cù mưa nắng, và cả một tuổi thơ tôi đầy ăm ắp nhớ thương.

Tuổi thơ tôi là những ngày 5 chị em trông nom lẫn nhau. Tôi là chị lớn thứ 2, bồng ẳm 3 đứa em đến nỗi hai bên sườn nổi dày đặc hột cám. Những tối ba mẹ đi làm về muộn, cả lũ đói cơm, sợ ma, không dám ở trong nhà, kéo nhau ra đầu ngõ ngồi khóc hu hu, rồi tự lau nước mắt cho nhau, ngóng ba mẹ về trong tiếng ễnh ương kêu ộp oạp.

Lớn thêm một tí, tôi đã biết nhóm lửa thổi cơm mỗi khi ba mẹ vắng nhà. Những bữa cơm đạm bạc chỉ có rau luộc hái trong vườn chấm với xì dầu. Bếp lửa nhóm từ rơm, hay củi khô, lá khô mấy chị em đi mót về, sau đó chuyển qua bếp lò thổi bằng trấu (vỏ lúa), khói um cay mắt, đậm nồng cả gian bếp nhỏ.

Tuổi thơ tôi còn có những đêm hè trời nóng, ba bắc chõng tre ngoài sân, lót tàu lá chuối làm chiếu cho mát. Mấy cha con nằm ngửa đầu ngắm trăng, ba ngâm thơ, dạy tôi bập bẹ làm thơ, những vần điệu vụng về và non nớt, gieo vào lòng tôi những cảm xúc đầu tiên trong cuộc đời, biết yêu quê hương, đất nước, yêu gia đình…

Tuổi thơ tôi là những ngày đi học xa nhà ở trường chuyên tỉnh, dành ít tiền học bổng để mua sách học thêm. Người tôi bé loắt choắt như con cóc con. Mỗi tuần tôi đạp xe đi về quãng đường 15 km trong gió lào ràn rạt muốn xô ngã cả người lẫn xe; hay trong tiết heo may mùa đông giá lạnh ẩm ướt… chỉ để được sà vào lòng ba mẹ, chỉ để được sum họp cả nhà cùng ăn bữa cơm gia đình hạnh phúc.

Tuổi thơ tôi là buổi chiều nước lũ dâng cao, đứng bên này cầu Ái Tử nhìn nước dâng ngập đường trắng xóa, rồi lặng lẽ dầm mưa đạp xe quay ngược trở về nội trú, cuộn mình thút thít trong chăn, khóc đến đỏ hoe mắt vì thương ba thương mẹ và nhớ nhà da diết.

Tuổi thơ tôi là 3 năm cấp III, cơm canh nội trú ngon nhất chính là trường kỳ món cá mắm mặn chát, một con có thể ăn được từ 2 đến 3 chén cơm, mà lũ học trò gầy tong teo như cây củi ăn hoài không biết chán.

Tuổi thơ tôi còn có nhành phượng đỏ ép trong trang lưu bút, có bài thơ dang dở chưa kịp tặng một ai đó, có giọt nước mắt học trò đêm lửa trại chia tay, muôn lời nghẹn lại trong tim, mãi vẫn không phai.

Tuổi thơ tôi là chắt chiu mồ hôi của mẹ, mừng vui ngày tôi nhận giấy báo trúng tuyển đại học, mẹ run run lấy từ gia tài dành dụm, đeo vào tay con gái nửa chỉ vàng, nghẹn ngào dặn dò: “Con ráng học hành cho giỏi, mẹ chỉ có bấy nhiêu thôi… ráng giữ phòng thân khi đau ốm, khi không có ba mẹ bên cạnh”.

Xe đã chuyển bánh, bóng mẹ xa dần, tôi cố mỉm cười vẫy tay, tạm biệt mẹ mà trong lòng đau xót. Trước mắt tôi, mẹ cố kiên cường không rơi lệ, nhưng tôi biết sau khi xe chạy khuất, mẹ sẽ lặng lẽ trở vô nhà và bưng mặt ngồi khóc cả buổi.

Bánh xe thời gian thấm thoắt đã trôi xa, tôi từng bước trưởng thành, đi làm, lấy chồng, rồi làm mẹ. Đến khi sinh con, tôi vẫn nhất quyết phải về quê để được ở bên cạnh mẹ, được mẹ tự tay “xông phây” khi ở cữ. Giây phút bồng trên tay sinh linh bé nhỏ của mình từ tay “mệ ngoại”, tôi đã khóc, giọt nước mắt vừa hạnh phúc, lẫn biết ơn. Câu “mang nặng đẻ đau” ý nghĩa đến nhường nào khi chính bản thân mình vừa trải nghiệm qua.

Tôi bao ngày xa quê, tha phương trăm nẻo vẫn luôn tự hào và nhớ nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Và nếu có ai đó hỏi: Anh/chị/bạn quê ở đâu? Tôi sẽ ưỡn ngực và tự hào trả lời: “Tôi – là người Quảng Trị“.

Văn Thị Hồng Hà

[nguon]Nguồn:http://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/tro-ve-que-huong/toi-la-nguoi-quang-tri-3255532.html[/nguon]