Lưu trữ cho từ khóa: cau hien luong

Hơn 1,6 triệu lượt khách đến tham quan “miền đất lửa” Quảng Trị

Được biết đến là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Quảng Trị đã và đang phát huy các thế mạnh để phát triển du lịch và tập trung khai thác các tour du lịch hoài niệm, tâm linh.

Theo thống kê của Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị, từ đầu năm đến nay tại các điểm trên địa bàn tỉnh đã đón hơn 1,6 triệu lượt khách từ trong và ngoài nước đến tham quan và du lịch. Trong đó, lượng khách nội địa chiếm số lượng khá lớn với hơn 1,4 triệu lượt, khách nước ngoài chiếm gần 200.000 lượt.

du-lich-dia-dao-vinh-moc-quang-tri

Du khách quốc tế đến tham quan và tìm hiểu quá khứ tại Di tích quốc gia đặc biệt địa đạo Vịnh Mốc

Nhắc đến Quảng Trị, chắc hẳn du khách sẽ nhớ đến những công trình, địa danh gắn liền với quá trình đấu tranh giữ nước như: Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh, Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải, Sân bay Tà Cơn, trụ sở Ủy ban cách mạng lâm thời. Cùng với 3 điểm tâm linh quan trọng, gồm: Nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Đường 9, Thành cổ Quảng Trị,…

Vào các dịp lễ, tết du khách các nơi lại có cơ hội trở về “miền đất lửa”. Đến với Quảng Trị, mọi người có dịp đến các điểm tâm linh để viếng và tri ân các vị anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài ra, mọi người có thể đến thăm các điểm du lịch hoài niệm, mang đậm dấu ấn về một thời kỳ chiến tranh gian khổ của quân và dân ta.

tham-quan-cau-hien-luong-quang-tri

Du khách tham quan Khu di tích đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải

Những năm gần đây, ngành du lịch tỉnh Quảng Trị đã khai thác và phát huy những thế mạnh đặc trưng của địa phương. Trong đó, tập trung khai thác các tour du lịch hoài niệm, tâm linh. Qua đó, góp phần mang đến tổng doanh thu kinh doanh du lịch xã hội đạt trên 1.400 tỷ đồng (tăng 11% so với năm 2014).

Năm 2015 cũng là năm diễn ra nhiều ngày lễ lớn quan trọng của địa phương cũng như cả nước, hòa chung không khí này ngành du lịch tỉnh Quảng Trị đã triển khai tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.

can-ho-trong-long-dia-dao-vinh-moc

Mô hình căn hộ gia đình trong lòng địa đạo Vịnh Mốc

Để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch, công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư, hợp tác, quảng bá du lịch với tỉnh Savannakhet (Lào) – Mukdahan (Thái Lan) được chú trọng thực hiện. Việc khai thác Trung tâm Thông tin du lịch Lao Bảo gắn với Cụm thông tin tuyên truyền đối ngoại của tỉnh tại Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo được thực hiện có hiệu quả đã góp phần thu hút một lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến với vùng đất này.

Dựa trên những kết quả đã đạt được, ngành du lịch tỉnh Quảng Trị phấn đấu trong năm 2016 sẽ thu hút thêm tổng lượng khách tăng 3,4% so với năm 2015, tổng doanh thu kinh doanh du lịch xã hội 1.425 tỷ đồng.

[nguon]nguồn: http://dulich.dantri.com.vn/du-lich/quang-tri-hon-1-6-trieu-luot-khach-den-tham-quan-mien-dat-lua-20151217230931984.htm[/nguon]

Nhớ mãi giờ dạy Truyện Kiều trên đất thép Vĩnh Linh

Là một giáo viên văn, tôi rất yêu thích Truyện Kiều và đã thuộc lòng từ khi còn rất trẻ…

Năm 1973, tôi là một giáo viên K8 ở Ninh Bình, theo học sinh Vĩnh Linh trở về quê hương bên dòng Bến Hải. Khi ấy, ta mới giải phóng dòng sông Thạch Hãn, nghĩa là khói lửa chiến tranh, âm vang trận mạc còn nóng bỏng. Vĩnh Linh – Quảng Trị mới bắt đầu trở lại với muôn vàn khó khăn để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới. Mọi thứ còn rất thiếu thốn nhưng không thể thiếu trường cho con em học sau một thời gian sơ tán xa quê.

trieu-kieu-tren-dat-thep-vinh-linh

Hội thi tìm hiểu thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều do UBND huyện Nghi Xuân tổ chức

Tôi được lên lớp trong một ngôi trường ở thị trấn Hồ Xá, tuy chưa khang trang nhưng cũng không còn là tranh tre, nứa lá. Trường cũng đã mang tầm vóc bề thế của một mảnh đất anh hùng vươn dậy qua khói lửa chiến tranh… Tâm thế ấy đã làm cho tôi không thể quên một giờ dạy đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.

Sau khi giới thiệu tác giả, tác phẩm, tôi đọc văn bản đoạn thơ và mời một học sinh đọc. Sau đó, tôi hỏi cả lớp: Em có nhận xét gì về âm hưởng của đoạn thơ, nó có gì khác so với đoạn mô tả Tài sắc chị em Thúy Kiều? Lớp học như sôi động cả lên, trả lời đồng loạt: Thưa thầy! ồn ã hơn, kịch tính hơn và đau xót nữa. Tôi gợi ý: Đoạn trích như một màn bi hài kịch. Theo các em, đâu là nhân vật, đâu là lời thoại và đâu là xung đột? Một em trả lời ngay: Nhân vật có 3: Mã Giám Sinh, Thúy Kiều và bà mối. Tôi cổ vũ: Đúng! rất đúng! Bỗng một em đứng dậy nói ngay, làm cho cả lớp rất ngạc nhiên: Thưa thầy! Đúng nhưng chưa đủ, theo em, nhân vật trung tâm nhất là đồng tiền. Chính đồng tiền đã chi phối tất cả. Vì thế, đoạn thơ mới kết thúc bằng một lời tuyên bố: Tiền lưng đã có việc gì chả xong.

Tôi không thể không tán dương và khen ngợi những phát hiện mới của em. Nhưng rồi chính em đó lại nói luôn: Sao thầy lại bảo em phát hiện, mà chính Nguyễn Du mới là người phát hiện. Lặng đi một chút đầy bất ngờ và thán phục, tôi tiếp tục hỏi: Vậy xung đột chính của đoạn trích là gì và em hãy phân tích những lời thoại của các nhân vật? Xung đột thì có em trả lời được ngay rất tường minh, chính xác, đó là: xung đột giữa giá trị phẩm chất cần được tôn trọng, bảo vệ với sự lố bịch, bỉ ổi, trơ tráo của bọn con buôn.

Đến lời thoại thì tôi thật bất ngờ trước những phát hiện của học sinh. Có thể đây là tình huống gây không ít lúng túng cho người dạy: Thưa thầy, lời thoại thì diễn ra giữa kẻ mua – bọn buôn người chỉ biết “cò kè bớt một thêm hai” với bà mối như một kẻ cò mồi. Cả hai đều vì tiền…

Tôi say sưa thuyết giảng về bản chất trơ trẽn, lố bịch của bọn buôn người, sự khôn ngoan lọc lõi của bà mối. Từ đó, cao giọng mà nói về thái độ, tấm lòng Nguyễn Du. Học sinh chăm chú nghe. Bỗng một em xin phát biểu: Thưa thầy! Thưa cả lớp! Theo em, bài này không nên nói nhiều đến lời thoại cùng với những người phát ngôn mà nên phân tích nỗi đau nhân vật không lời thoại. Đó là đồng tiền. Còn nàng Kiều, nhân vật chính không nói câu nào. Kiều đã câm lặng từ đầu đến cuối. Nàng Kiều đã bị vật hóa; mà đã là hàng hóa thì vô tri, câm lặng. Nỗi đau của Kiều là chỗ đó. Ở đây, giá trị thực không được lên tiếng, mà kẻ lên tiếng lại là những người chà đạp lên giá trị ấy. Sự đồng cảm, sự chia sẻ và nỗi đau của Nguyễn Du cũng là ở chỗ đó.

Trước tình huống ấy, dĩ nhiên là giáo án của tôi đã bị “cháy” nhưng tôi cảm nhận rằng, bài giảng rất thành công. Con người Quảng Trị không chỉ biết gan lì chịu đựng, dũng cảm, hiên ngang trước quân thù mà còn rất tinh tế, nhạy cảm, biết rung động trước vẻ đẹp thẩm mỹ mà văn chương đưa lại… Có lẽ đây cũng là nét đẹp văn hóa làm ngời thêm bản chất thép của con người Vĩnh Linh anh hùng

Sau giờ giảng, tôi bâng khuâng nghĩ mãi về bài dạy của mình… Suy nghĩ bỗng bị ngắt quãng khi tiếng đại bác bên bờ sông Thạch Hãn gầm vang, trút lửa lên đầu thù…

Nguồn Báo Hà Tĩnh

Đôi bờ Hiền Lương và nỗi đau chia cắt

Vốn cũng bình thường như bao mảnh đất khác ở miền Trung và mọi miền đất nước Việt Nam, song đến khi đế quốc Mỹ biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng thì dòng sông Bến Hải – Hiền Lương đã trở nên nổi tiếng, được cả thế giới biết đến.

cauhienluongCầu Hiền Lương. Ảnh tư liệu

Bất cứ ai trong hành trình xuôi Nam, ngược Bắc đều muốn thấy tận mắt “nhân chứng lịch sử” hơn hai mươi năm mang trong mình nỗi đau chia cắt của đất nước, từng chứng kiến một quá khứ bi thương mà hào hùng, oanh liệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Ngược trở về quá khứ, Hiệp định Geneva năm 1954 đã chia cắt đất nước Việt Nam thành hai miền Nam – Bắc, lấy Vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải thơ mộng ở tỉnh Quảng Trị chảy qua làm ranh giới. Cuộc phân ly tạm thời tưởng rằng chỉ kéo dài 2 năm và kết thúc sau khi tổng tuyển cử thống nhất, nhưng thực tế đã kéo dài tới 21 năm.

Ghi dấu quá khứ hào hùng

Trong hơn 20 năm chia cắt, không mảnh đất nào chịu đựng nhiều đau thương như ở Bến Hải, Hiền Lương. Hiền Lương đã trở thành biểu tượng của sự cách trở, chờ đợi, ngóng trông, sự chia ly và nỗi đau mất mát…

“Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ,
Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa…”

Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành “nhân chứng lịch sử”, mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước, nơi đã chứng kiến nhiều vô cùng cảnh tang tóc, đau thương. Thế nhưng, trước cảnh gông cùm xiềng xích và máu đổ thịt rơi, lòng người không hề nao núng. Đồn bốt được kẻ thù dựng lên bằng sắt thép, lưỡi lê, bằng xe tăng đại bác, nhưng không có sức mạnh nào khuất phục được lòng quả cảm, trí thông minh và niềm tin son sắt vào chân lý nhất định sẽ chiến thắng của nhân dân đôi bờ. Nhà điện ảnh Thụy Điển Giôrít Iven khi được chứng kiến đã phải thốt lên: “Vĩ tuyến 17 – nơi “trưng bày” sự man rợ đến tột cùng của đế quốc Mỹ và lòng dũng cảm đến mức thần thánh của nhân dân Việt Nam”.

Hơn 20 năm sau ngày chia cắt, đại thắng mùa xuân năm 1975 đã nối hai bờ sông Bến Hải. Và đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải đã trở thành cụm di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.Ngày 17/9/2003, khu di tích được chính thức khởi công phục hồi, tôn tạo, để cho đến hôm nay, khi đến với mảnh đất này, ta vẫn như còn thấy hiện ra trước mắt một quá khứ hào hùng và vô cùng sống động.

cauĐó là cây cầu Hiền Lương, nơi đã diễn ra nhiều cuộc tập kết lực lượng của ta và địch và cũng chính là nơi diễn ra nhiều câu chuyện cảm động giữa hai miền Nam-Bắc.

Là Cột cờ Hiền Lương,biểu tượng của niềm tin, ý chí thống nhất của đồng bào miền Nam ruột thịt đang ngày đêm hướng về miền Bắc, hướng về Đảng và Bác Hồ kính yêu. Để lá cờ tung bay trên đỉnh cột, giữ vững biểu tượng sức mạnh chiến thắng của dân tộc, các chiến sĩ đồn Công an Hiền Lương đã chiến đấu anh dũng hơn 300 trận lớn nhỏ dưới mưa gió, bão đạn để bảo vệ lá cờ. Đã có nhiều tấm gương giữ cờ vô cùng cảm động, như tấm gương của mẹ Nguyễn Thị Diệm, mặc dù đã già yếu nhưng không đi sơ tán, kiên quyết ở lại vá cờ.

Là đồn công an Hiền Lương, nơi không chỉ để tố cáo sự vi phạm Hiệp định của Mỹ – ngụy với tổ chức quốc tế mà còn là nơi diễn ra các cuộc đấu tranh gay gắt giữa ta và địch để bảo vệ quy chế khu phi quân sự.

Là hệ thống loa phát thanh tuyên truyền. Một vũ khí tâm lý hữu hiệu của quân đội nhân dân Việt Nam nhằm vạch trần âm mưu xâm lược đất nước ta của chính quyền Mỹ – ngụy và động viên, tiếp sức cho nhân dân miền Nam vững bước đấu tranh. Và đó còn là công trình mang tên “Cụm tượng đài khát vọng thống nhất” đặt ở bờ Nam sông Bến Hải.

Trên mạch nối giao thông giữa hai miền Nam – Bắc, cụm di tích đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải, Di tích đặc biệt cấp quốc gia, vẫn luôn là điểm sáng trong hành trình của du khách tìm về nơi đây để hoài niệm một thời đất nước chịu cảnh chia cắt. Để từ đó hiểu được sức mạnh của một dân tộc thiết tha yêu hòa bình, một ý chí và khát vọng giành độc lập, tự do, để có một đất nước Việt Nam tươi đẹp như hôm nay.

Đổi thay trên “vùng đất lửa”

Nằm bên con sông lịch sử, toàn thể chính quyền cùng nhân dân hai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh đang nỗ lực phát triển mọi mặt kinh tế-xã hội nhằm bù đắp những mất mát mà chiến tranh đã gây ra.

[30/04/2010 4:07:16 PM] N?m trong ho?t d?ng L? h?i Th?ng nh?t non sông, sáng 30/4/2010, t?i khu v?c phía b?c c?u Hi?n Luong trên sông B?n H?i,huy?n Vinh Linh ,t?nh Qu?ng Tr? dã di?n ra l? Thu?ng c? T? qu?c và l? nh?n nu?c t? su?i Lê Nin(Cao B?ng)và sông H?u (H?u Giang) , chào m?ng 35 nam Gi?i phóng hoàn toàn mi?n Nam, th?ng nh?t d?t nu?c và hu?ng t?i k? ni?m 1000 nam Thang Long – Hà N?i . Trong ?nh: Ðua thuy?n trên sông B?n H?i trong ngày h?i.?nh: Van Son-TTXVNĐua thuyền trên sông Bến Hải trong ngày hội Thống nhất non sông. Ảnh: Văn Sơn-TTXVN

Vùng đất chết năm xưa loang lổ dấu vết bom cày đạn xới thì nay đã nhường chỗ cho những đồng lúa, rừng cao su, hồ tiêu… xanh ngút ngàn, những vùng nuôi tôm trù phú. Đi dọc bờ sông Bến Hải, qua các xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thành, Vĩnh Giang của huyện Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị) là vùng nuôi tôm trù phú. Ngược lên vùng gò đồi phía thượng nguồn Bến Hải là những nông trường cao su, hồ tiêu xanh mướt. Chỉ riêng cây cao su đóng góp một nửa tổng thu ngân sách toàn huyện Vĩnh Linh, góp phần quan trọng cho huyện nhà trở thành Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.

Còn ở bờ Nam sông Bến Hải giờ là vựa lúa của huyện Gio Linh. Với lợi thế có 2 cửa lạch quan trọng là Cửa Việt và Cửa Tùng, Gio Linh còn là trọng điểm về nghề khai thác đánh bắt thủy sản, chiếm 2/3 sản lượng khai thác của tỉnh Quảng Trị, góp phần không nhỏ vào việc ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo cho người dân.

39 năm sau ngày đất nước thống nhất, đôi bờ Hiền Lương nay đã thay da đổi thịt, đi đến đâu cũng thấy khí thế hăng say sản xuất. Người dân nơi đây đang đồng lòng chung tay xây dựng quê hương đổi thay từng ngày.

Video Cầu Hiền Lương  – Vĩ tuyến 17 được quay bằng  Flycam :

Trung tâm Thông tin Tư liệu/TTXVN