Lưu trữ cho từ khóa: giao duc

Dạy trẻ khuyết tật: Không chỉ là yêu thương…

GD&TĐ – Với các thầy cô giáo làm công tác giáo dục học sinh khuyết tật, chỉ niềm say nghề là chưa đủ; để thực sự gắn bó với công việc lắm gian nan này còn cần rất nhiều sự hy sinh và tình yêu thương…

Có thể thấy rõ điều này trong câu chuyện của những nhà giáo được vinh danh tại Lễ tuyên dương các nhà giáo và cán bộ quản lý tiêu biểu trong giáo dục học sinh khuyết tật toàn quốc lần thứ ba tổ chức sáng nay (26/11) tại Hà Nội.

tuyen-duong-day-tre-giao-duc

Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa thay mặt lãnh đạo Bộ GD&ĐT trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho các thầy cô giáo

Thầy cô như cha, mẹ

Không đơn giản chỉ là dạy học, các thầy cô giáo làm công tác giáo dục học sinh khuyết tật còn phải kiêm thêm rất nhiều công việc mà có lẽ chỉ có thể hoàn thành với tấm lòng yêu thương vô bờ bến của người mẹ, người cha.

N.V.T – học sinh Trường tiểu học Lê Văn Tám (Cam Lộ, Quảng Trị) – bị cụt hai cánh tay, hai chân lại một ngắn, một dài nên vận động vô cùng khó khăn. Những ngày đầu cắp sách đến trường với em thật gian nan vô cùng, không chỉ bởi những khuyết tật ngoài cơ thể mà là sự nhút nhát, mặc cảm và tự ti khiến em khó lòng hòa nhập cùng bạn bè, cùng môi trường mới.

Kể về học sinh của mình, cô Hoàng Thị Sành không nhớ nổi mình đã phải mất bao nhiêu thời gian ở bên T để động viên, an ủi, giúp em cảm nhận được tình cảm yêu thương để vượt qua mặc cảm.

“Quản lý một trường có nhiều thuận lợi mà nhiều khi tôi còn thấy khó khăn vô cùng. Vậy nên khó có thể hình dung các thầy cô giáo làm việc trong hệ thống giáo dục học sinh khuyết tật, nhiều trường lại trong điều kiện khó khăn, còn gian khó đến mức nào. Tôi thực sự khâm phục các thầy, cô” – NGƯT Nguyễn Thị Hiền – Hiệu trưởng Trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Hà Nội).

Do không tự phục vụ được bản thân nên mọi sinh hoạt của Tài ở trường, kể cả việc đi vệ sinh, cô Sành đều phải hỗ trợ

“T mất hai tay nên tôi đã hướng dẫn, giúp em kẹp bút vào chân để viết. Khỏi phải nói thời gian đầu, cả cô và trò đã vất vả như thế nào, nhiều lúc mồ hôi đầm đìa, đôi chân tê dại. Nhưng công sức đã được đền đáp khi chỉ cuối năm lớp 1, T đã có thể viết được những chữ cái đơn giản bằng chân.

Ngoài giờ dạy văn hóa, tôi cố gắng giành thời gian hướng dẫn T những kỹ năng cơ bản để em có thể sống tự lập, tự phục vụ, giảm đi sư phụ thuộc vào người khác một cách tối đa có thể” – cô Hoàng Thị Sành tâm sự.

Câu chuyện của thầy giáo Đoàn Văn Ninh – Trường mầm non Đông Mai (thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) – cũng khiến mọi người cảm phục và xúc động.

Là thầy giáo dạy trẻ mầm non, chỉ bản thân công việc đó thôi cũng đã là thách thức, nói gì đến dạy trẻ mầm non khuyết tật. Ấy vậy mà, hơn 10 năm qua, thầy Đoàn Văn Ninh đã miệt mài đến từng gia đình có trẻ khuyết tật để vận động cha mẹ đưa con đến lớp.

Bằng kiến thức tự học, bằng kinh nghiệm nhiều năm và trên hết là tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, yêu nghề, thầy Ninh đã làm thay đổi nhận thức của rất nhiều phụ huynh cũng như của cộng đồng về trẻ khuyết tật.

Cũng với vốn kinh nghiệm ấy, thầy đã chủ động, tình nguyện bồi dưỡng, chia sẻ cho các đồng nghiệp trong trường, trong huyện, hỗ trợ các thầy cô khác cách xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ khuyết tật, giúp các em được học hòa nhập một cách tự nhiên, phù hợp và có chất lượng.

“Nếu trẻ khuyết tật không được học hòa nhập tốt ở bậc học mầm non, thì làm sao các em có thể hòa nhập và học tốt ở tiểu học” – thầy Đoàn Văn Ninh chia sẻ chân tình.

Còn vô vàn những tấm gương cán bộ quản lý, giáo viên dạy trẻ khuyết tật trên khắp mọi miền đất nước, hàng ngày hàng giờ cống hiến và hy sinh thầm lặng. Có những thầy cô đã gắn bó với công việc đầy vất vả, gian nan này cả cuộc đời mình.

Có thể nói đến nhà giáo Võ Thị Hải Nam (Trường THCS Hùng Vương, Tràng An, thành phố Huế). Trong 17 năm liên tục tham gia dạy học sinh khuyết tật, cô đã vận động 100% học sinh khiếm thị trên địa bàn tới trường. Năm học 2009 – 2010, học sinh khiếm thính của cô đã vinh dự đạt giải nhì cuộc thi viết thư UPU toàn quốc.

Hay thầy giáo Quách Nam Phong (Trường THCS Yên Mỹ – Yên Mô, Ninh Bình), không chỉ hết lòng yêu thương học sinh khuyết tật, thầy đã biến tình yêu đó thành những sáng kiến kinh nghiệm quý. Rất nhiều sáng kiến của thầy đã được áp dụng, nhân rộng trong các nhà trường.

Cô Nguyễn Thị Tố Lan – Giám đốc Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật huyện Quảng Trạch, Quảng Bình – trong 18 năm công tác đã tích cực tham mưu cho UBND huyện nâng cấp từ một cơ sở giáo dục chuyên biệt với số lượng học sinh ít ỏi thành Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập tại một vùng đất còn rất nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh.

Rồi còn rất nhiều những cái tên khác, như các nhà giáo: Mai Thanh Hải (Trường THCS Quang Trung, Chư Prông, Gia Lai), Nguyễn Thị Lệ Hằng (Trường THCS Thượng Long, Phú Thọ), Nguyễn Thị Huệ (Trường THCS Khai Quang, Vĩnh Phúc)…Các thầy cô đã luôn tìm tòi, sáng tạo, vận dụng các giải pháp để giúp học sinh khuyết tật từng bước hòa nhập với các bạn trong trường, trong lớp, cộng đồng, có nhiều tiến bộ trong học tập. Công việc đó không hề đơn giản vì là cả một quá trình bền bỉ, kiên trì và không ít khó khăn.

tuyen-duong-day-tre-giao-duc-2015

Cán bộ quản lý, giáo viên tiêu biểu chia sẻ kinh nghiệm giáo dục học sinh khuyết tật

Những ước mong giản dị

Rất nhiều khó khăn trong công việc, nhưng thật cảm động, khi những ước mong của các thầy cô trước lãnh đạo Ngành chẳng hề vướng chút quyền lợi riêng tư.

Tại lễ tuyên dương,194 nhà giáo đã được vinh dư nhận Bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Trong số này có 57 là cán bộ quản lý, 137 giáo viên các cấp học. Đây là những nhà giáo tiêu biểu, đại diện cho các vùng miền trong cả nước, là những tấm gương sáng về tình yêu thương, tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh, tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu.

Xúc động và tự hào khi được thay mặt hàng nghìn giáo viên dạy trẻ khuyết tật trên cả nước tham dự lễ tuyên dương, cô Võ Thị Hải Nam chỉ mong mỏi lãnh đạo Bộ GD&ĐT tiếp tục tổ chức nhiều cuộc giao lưu, học hỏi, gặp gỡ hơn nữa để bản thân được học hỏi những kinh nghiệm quý trong giáo dục học sinh khuyết tật của đồng nghiệp.

Cô Hải Nam cũng mong muốn có thêm nhiều tài liệu tham khảo hơn nữa để phục vụ công tác giảng dạy được tốt hơn. “Tôi mong rằng, sẽ có một cuốn sổ tay nói về cách dạy học sinh khuyết tật học hòa nhập; hoặc được bổ sung thêm tài liệu giúp giáo viên xây dựng kế hoạch cá nhân cho từng học sinh khuyết tật” – cô Nam chia sẻ ước mong giản dị.

Kiến nghị của cô Hải Nam cũng là tâm tư, mong muốn của những giáo viên khuyết tật tâm huyết với nghề.

Chia sẻ với những khó khăn của các thầy cô giáo, ông Nguyễn Đức Hữu – Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ GD&ĐT) – cho biết: Công tác giáo dục học sinh khuyết tật trong thời gian qua, dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng nhiều khó khăn vẫn còn hiện hữu.

Đó là nhận thức của cộng đồng về giáo dục hòa nhập; chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên tham gia giáo dục học sinh khuyết tật; môi trường học tập, sinh hoạt của trẻ em học hòa nhập; vấn đề chính sách, cơ chế, chương trình, tài liệu, cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục phục vụ dạy hoa nhập; việc huy động sự tham gia của các lực lượng xã hội và cộng đồng…

Để vượt qua những thách thức đó, ông Nguyễn Đức Hữu cho rằng, cùng với sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, của ngành Giáo dục, sự chăm lo của toàn xã hội, việc phát huy tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái, sự năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trực tiếp tham gia giáo dục trẻ khuyết tật là vô cùng quan trọng và cần thiết.

“Chúng tôi mong muốn và tin tưởng rằng, các cán bộ quản lý và giáo viên tiêu biểu được tôn vinh ngày hôm nay sẽ là lực lượng nòng cốt và tiếp tục tỏa sáng trong công tác giáo dục học sinh khuyết tật ở các địa phương và trên toàn quốc” – ông Nguyễn Đức Hữu gửi gắm.

Nguồn Giáo Dục Thời Đại

Như một tình yêu lớn

Có một đôi bạn cùng học đại học chuyên ngành Giáo dục đặc biệt, cùng khởi nghiệp bằng việc dạy trẻ tự kỷ (TK) và cùng xác định đó là nghề sẽ theo suốt cuộc đời. Với cặp đôi này, vất vả không nhân đôi, mà ngược lại, niềm hạnh phúc được cộng hưởng khi cả hai có thể đi chung trên con đường giúp trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng.

thay_phi-quang-tri

Thầy Phi và cô Hà (ảnh trái, ngồi giữa) trong giờ vận động ngoài trời với trẻ. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Yêu nghề nên được yêu nhau

Làm giáo viên của trẻ TK thì khó mà rời các em dù trong một hoạt động hay khoảnh khắc, thế nên, cuộc trò chuyện của chúng tôi với vợ chồng thầy giáo Nguyễn Trường Phi (28 tuổi) và cô giáo Lê Thị Hà (27 tuổi) bắt đầu vào giữa giờ trưa, khi những đứa trẻ đã đi vào giấc ngủ. Họ là những giáo viên trẻ, song lại là hai giáo viên “lâu năm” trong lĩnh vực dạy trẻ em TK tại Đà Nẵng. Trước đó, lực lượng giáo viên dạy trẻ TK trên địa bàn thành phố được đào tạo chuyên về công việc này còn khá hiếm. Cả hai là những sinh viên thuộc thế hệ đầu của Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khoa Tâm lý – Giáo dục, chuyên ngành Giáo dục đặc biệt (khóa 2005-2009). Thế nên, với 5 năm theo nghề, Phi và Hà có thể được coi là những giáo viên đầu tiên trong giai đoạn Đà Nẵng bắt đầu hình thành các lớp học dành riêng cho trẻ TK.

Lúc ngồi trên giảng đường đến khi cùng vào trường chuyên biệt Tư thục Thanh Tâm (121 Phan Tứ) vào năm 2010, Phi (quê Quảng Trị) và Hà (quê Thanh Hóa) chỉ là những người bạn đơn thuần. Thế nhưng, yêu trẻ con, yêu những em bé TK dần khiến cả hai cảm mến nhau lúc nào không hay, để rồi một năm sau đó, họ trở thành những “đồng nghiệp” đặc biệt của nhau khi có thể cùng đi, cùng về mỗi ngày.

Lớp TK tại Ttrường chuyên biệt Thanh Tâm có 5 giáo viên với tổng cộng 10 học sinh. Trong đó, thầy Phi là giáo viên nam duy nhất của lớp và cũng trở thành “ba” của không ít đứa trẻ vốn gặp nhiều khó khăn trong việc thể hiện tình cảm. Giáo viên nữ theo nghề dạy trẻ là chuyện bình thường, nhưng với giáo viên nam, công việc dạy dỗ trẻ con hóa ra lại có nhiều cái hay. Hà cười thật tươi, chia sẻ về “đồng nghiệp” của mình: “Trong lớp có cô giáo lẫn thầy giáo cũng hay lắm. Thầy có cái uy nhất định nên việc sắp xếp, tổ chức lớp thuận lợi. Bên cạnh đó, một số cháu có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn, thiếu tình yêu thương của người cha nên lên lớp gặp thầy là quấn quýt, hợp tác với thầy hơn với cô”.

Thông thường, thầy Phi sẽ là người đánh giá khả năng và nhu cầu của các em có dấu hiệu TK trước khi được tiếp nhận vào trường. Công việc dù đã lặp lại không biết bao lần nhưng với thầy, đó luôn là một thách thức: “Mỗi trẻ một biểu hiện và nguyên nhân TK khác nhau, nên ngoài kiến thức lý thuyết mình đã được đào tạo thì khả năng nhìn nhận, đánh giá dựa vào kinh nghiệm tiếp xúc với trẻ cũng rất quan trọng. Làm thế nào xác định trẻ bị TK nhẹ hay nặng luôn là câu hỏi khó”.

Hiện tại, công việc chính của cô Hà là dạy trẻ TK tại lớp, còn thầy Phi, ngoài tham gia giáo dục chuyên biệt còn làm công tác hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại cộng đồng ở Quảng Nam và Đà Nẵng.

“Các cháu có rất nhiều tài”

Chia sẻ về lý do chọn nghề dạy trẻ TK, cô Hà vẫn còn đong đầy cảm xúc bỡ ngỡ của những ngày đầu bước chân vào chuyên ngành Giáo dục đặc biệt: “Hồi đó, mình cứ nghĩ học tạm năm đầu, song song ôn thi lại ngành khác vào năm sau. Nhưng hết một năm thì bỗng thấy thích nghề nghiệp tương lai của mình vì cảm nhận đó sẽ là việc làm có ích cho nhiều em nhỏ kém may mắn”. Từ chỗ học tạm tới… học thiệt với Hà gói trọn trong năm học đầu. Và sau đó, hễ có cơ hội tham gia các lớp tập huấn tại Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh là cô lại lên đường tham gia ngay.

Chủ đề trẻ TK luôn có điều gì đó hấp dẫn cô gái trẻ khi càng tìm hiểu, nghiên cứu, càng thấy thích. Qua nhiều năm, Hà lại càng khám phá nhiều điều đáng yêu trong tâm hồn trẻ thơ của các bé TK nhất là cô giáo phát hiện các em có rất nhiều tài năng. “Các em giỏi lắm chứ không chỉ là kém hiểu biết, kém giao tiếp như nhiều người nghĩ. Có em trí nhớ tốt, nhớ số cực giỏi, có em có khả năng “chụp” những hình ảnh nhìn thấy trước mắt và vẽ lại rất đẹp. Nói chung các em đều ẩn chứa khả năng nổi trội ở một khía cạnh nào đó”, cô giáo Hà chia sẻ.

Trong khi đó, chàng sinh viên Nguyễn Trường Phi ban đầu đến với ngành này chỉ với lý do có người quen tư vấn học để dễ… xin việc làm sau khi ra trường. Nhưng cũng như Hà, lúc biết thực chất công việc tương lai, thầy Phi có thể tự tin khẳng định sẽ gắn bó mãi mãi như một tình yêu lớn và một thách thức mà bản thân phải chinh phục. Nói là thách thức bởi giáo trình, phương pháp dạy trẻ TK đến nay vẫn còn mới mẻ và chưa thống nhất. Người dạy giống như những người tiên phong vừa đi vừa học hỏi từng bước. Thế nên, dạy trẻ TK đến nay chưa là công việc dễ dàng xét ở mọi khía cạnh.

Lật lại album ảnh học trò qua các năm, thầy Phi và cô Hà như rạng ngời hạnh phúc khi nhắc nhớ tên, quê quán, hoàn cảnh của những em đã được tái hòa nhập trong 5 năm qua. “Mỗi học trò từ TK, phải học riêng lẻ đến khi có thể ra lớp với các bạn ngoài xã hội là niềm vui không gì sánh bằng. Ba mẹ vui một nhưng giáo viên vui đến 10”, thầy cô Phi-Hà tâm sự.

[nguon]Nguồn:http://www.baodanang.vn/channel/6061/201409/nhu-mot-tinh-yeu-lon-2361182/[/nguon]