Chuyên mục lưu trữ: Giáo dục

Ký ức về mái trường xưa

Tôi về thăm lại trường xưa
Tóc đà sợi nắng, sợi mưa trên đầu…

Năm học 1961-1962 sau khi học xong lớp vỡ lòng, tôi vào lớp một Trường Phổ thông cấp I Vĩnh Tú (Vĩnh Linh, Quảng Trị). Thầy giáo chủ nhiệm chúng tôi là thầy Huệ, một người thầy hiền từ, nghiêm khắc và hết lòng yêu thương học sinh.

ky-niemCán bộ, giáo viên Trường Tiểu học Vĩnh Tú qua các thời kỳ

Trường chúng tôi có 8 lớp học, bốn lớp A học buổi sáng, bốn lớp B học buổi chiều. Lúc đó, trường chỉ là một ngôi nhà mái tranh, phên đất với bốn phòng học nên các thầy cô giáo phải làm việc, hội họp ở nhà ông Tả. Các thầy giáo, cô giáo đều trẻ, vui… Ngoài các tiết học, các thầy cô còn dạy hát, tổ chức vui chơi cho chúng tôi. Những bài học thuộc lòng như “Học đi em, học đi mà nhớ mãi”, “Chú Hải quân”, “Quê em ở vùng biển”… hay những bài hát “Mời Bác về thăm quê cháu”, “Một hố chông diệt một tên lính Mỹ”, “Em đi thăm miền Nam”… Những bài hát, bài học thuộc lòng luôn in đậm trong tâm trí mỗi bạn nhỏ chúng tôi. Ngoài buổi học, nhà trường còn tổ chức lao động. Công việc chủ yếu là vệ sinh trường lớp. Tôi cùng các bạn dùng ống tre lấy nước ở bàu Thủy Ứ đổ vào bể cạn để rửa tay và phòng để chữa cháy hay phân công bảo vệ, chăm sóc hàng cây xà cừ phía trước trường với khẩu hiệu “Ông trồng cháu chăm”. Trường chúng tôi có vườn thực hành được chia thành luống nhỏ để trồng ngô, cải, cà chua, đu đủ… Lớp 1A của tôi được phân công chăm bón luống cà chua, đến mùa cho rất nhiều quả to, đỏ mọng. Thầy giáo chủ nhiệm chúng tôi nói vui: “Nếu đem ra chợ bán thì 1 quả 5 xu, còn bán cho học sinh trong lớp thì rẻ thôi, 2 quả 1 hào”…

Giờ chào cờ đầu tuần là hoạt động mà chúng tôi mong đợi nhất. Cả ngày chủ nhật nghỉ học, chúng tôi cứ mong ngày thứ hai đến trường thật sớm để được chào cờ và hát Quốc ca. Đặc biệt, chúng tôi được nghe thầy Hiệu trưởng Hoàng Kim Châu kể chuyện về Bác Hồ, về miền Nam đang đấu tranh chống Mỹ – Diệm, phản đối bọn chúng dùng máy chém, rào ấp chiến lược, thảm sát ở nhà tù Phú Lợi… Thầy hiệu trưởng còn phát động những phong trào như “Sạch như bệnh viện, đẹp như công viên”, “Lao động tốt như bác nông dân, tập hợp nhanh như anh bộ đội”, phong trào “Hai tốt”, “Tiếng trống Bắc Lý”…

Năm học 1963-1964, tôi học lớp 3 và được kết nạp vào Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Vào dịp này chúng tôi được nhà trường phát động, hưởng ứng phong trào “Làm ngàn việc tốt” từ sáng kiến của thầy giáo Nguyễn Đức Thìn, Tổng phụ trách đội Trường cấp II Liên Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh. Tôi và các bạn tích cực hưởng ứng với những việc làm cụ thể như đi học về không chặn đường đánh bạn, không rảy mực vào áo bạn, ra đường luôn đi về bên phải, gặp người lớn phải đứng lại chào, giúp ba mẹ làm việc nhà, đi chăn trâu bò không để trâu bò ăn lúa, hoa màu của hợp tác xã… Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, chúng tôi hăng hái hưởng ứng phong trào như thế…

Năm học 1964-1965 đế quốc Mỹ ném bom xuống thị trấn Hồ Xá, giết hại thầy giáo và một số học sinh ở trường cấp III vào chiều ngày 8/2/1965. Chúng tôi không học ở trường nữa mà chuyển về học ở nhà đội của Hợp tác xã thôn Tây. Bàn viết sử dụng ghế băng, chỗ ngồi dùng lá chua mót trải xuống. Một thời gian sau chúng tôi chuyển sang học ban đêm vì máy bay Mỹ tập trung ném bom vào ban ngày. Nói là ban đêm nhưng từ 11, 12 giờ trưa chúng tôi đã lục tục đến trường. Chỗ tập kết là rú Dầu Sở, trò chơi mà chúng tôi thích nhất là “mèo đuổi chuột”. Chúng tôi đuổi bắt nhau, trên những cành cây dầu sở sum suê đan chéo vào nhau… Để chuẩn bị cho buổi học ban đêm, ngoài sách vở, dụng cụ học tập còn có một cây đèn dầu hỏa có cấu tạo đặc biệt, lúc không sử dụng thì ấn tim đèn vào trong chai (phía dưới có cái lò xo) rồi đậy kín nắp cho dầu khỏi đổ ra. Khoảng 9,10 giờ đêm buổi học kết thúc, chúng tôi ra về bụng đói meo nhưng vẫn hát nghêu ngao tận các ngõ nhỏ.

Năm học 1965-1966, tôi lên học cấp 2. Thế rồi chiến tranh ngày càng ác liệt, từ tháng 8, 9 năm 1967 học sinh trường cấp I, cấp II chúng tôi phải sơ tán ra các tỉnh phía Bắc theo kế hoạch K8, K10. Các thầy giáo, cô giáo, anh chị phụ trách cùng chúng tôi vượt qua đạn bom ác liệt ra miền Bắc tiếp tục học tập. Ở nơi sơ tán, chúng tôi được ông bà, bố mẹ, anh chị nuôi, các thầy giáo, cô giáo chăm sóc, nuôi dạy chu đáo làm dịu đi những mất mát, hy sinh và nỗi nhớ nhà. Nhưng từ sâu thẳm, chúng tôi luôn khao khát được sống bình yên, được học tập, vui chơi dưới mái trường quê hương không còn bom đạn quân thù.

Từ tháng 5 đến tháng 7/1973 từ các nơi sơ tán đồng bào K10, học sinh K8 trở về quê hương sau 6 năm xa cách. Ở quê nhà cán bộ và nhân dân khẩn trương dựng các phòng học bằng tranh tre để kịp cho các cháu vào năm học mới. Ngày Chủ nhật 23/9/1973 các trường ở khu vực Vĩnh Linh tổ chức lễ khai giảng năm học mới. Trường Phổ thông cấp I Vĩnh Tú bước vào năm học 1973- 1974 ngay trên mãnh đất trường cũ…

Vậy mà đã sáu mươi năm, ngôi trường tuổi thơ tôi đã tròn 60 tuổi. Chúng tôi, những cựu học sinh của Trường Phổ thông cấp I Vĩnh Tú năm nào giờ cũng đã thành ông, thành bà, có người thành đạt, cũng có người trở về nơi đồng đất quê mình và cũng có những người bạn của chúng tôi nằm lại nơi chiến trường xa. Nhưng dù ở đâu thì hình ảnh mái trường xưa, ký ức về tình thầy trò, tình thân bè bạn thuở nào vẫn còn mãi trong chúng tôi. Xin phép mượn lời thơ của một học sinh cũ để kết thúc bài viết này: Dù cho tung cánh muôn phương/ Ơn thầy, tình bạn, nghĩa trường không quên.

NGUYỄN ÂN CẦN (Nguyên Hiệu trưởng Trường PTCS Vĩnh Tú 1987-1991)

[nguon]Nguồn:http://tinquangtri.com/ky-uc-ve-mai-truong-xua.html[/nguon]

Như một tình yêu lớn

Có một đôi bạn cùng học đại học chuyên ngành Giáo dục đặc biệt, cùng khởi nghiệp bằng việc dạy trẻ tự kỷ (TK) và cùng xác định đó là nghề sẽ theo suốt cuộc đời. Với cặp đôi này, vất vả không nhân đôi, mà ngược lại, niềm hạnh phúc được cộng hưởng khi cả hai có thể đi chung trên con đường giúp trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng.

thay_phi-quang-tri

Thầy Phi và cô Hà (ảnh trái, ngồi giữa) trong giờ vận động ngoài trời với trẻ. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Yêu nghề nên được yêu nhau

Làm giáo viên của trẻ TK thì khó mà rời các em dù trong một hoạt động hay khoảnh khắc, thế nên, cuộc trò chuyện của chúng tôi với vợ chồng thầy giáo Nguyễn Trường Phi (28 tuổi) và cô giáo Lê Thị Hà (27 tuổi) bắt đầu vào giữa giờ trưa, khi những đứa trẻ đã đi vào giấc ngủ. Họ là những giáo viên trẻ, song lại là hai giáo viên “lâu năm” trong lĩnh vực dạy trẻ em TK tại Đà Nẵng. Trước đó, lực lượng giáo viên dạy trẻ TK trên địa bàn thành phố được đào tạo chuyên về công việc này còn khá hiếm. Cả hai là những sinh viên thuộc thế hệ đầu của Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khoa Tâm lý – Giáo dục, chuyên ngành Giáo dục đặc biệt (khóa 2005-2009). Thế nên, với 5 năm theo nghề, Phi và Hà có thể được coi là những giáo viên đầu tiên trong giai đoạn Đà Nẵng bắt đầu hình thành các lớp học dành riêng cho trẻ TK.

Lúc ngồi trên giảng đường đến khi cùng vào trường chuyên biệt Tư thục Thanh Tâm (121 Phan Tứ) vào năm 2010, Phi (quê Quảng Trị) và Hà (quê Thanh Hóa) chỉ là những người bạn đơn thuần. Thế nhưng, yêu trẻ con, yêu những em bé TK dần khiến cả hai cảm mến nhau lúc nào không hay, để rồi một năm sau đó, họ trở thành những “đồng nghiệp” đặc biệt của nhau khi có thể cùng đi, cùng về mỗi ngày.

Lớp TK tại Ttrường chuyên biệt Thanh Tâm có 5 giáo viên với tổng cộng 10 học sinh. Trong đó, thầy Phi là giáo viên nam duy nhất của lớp và cũng trở thành “ba” của không ít đứa trẻ vốn gặp nhiều khó khăn trong việc thể hiện tình cảm. Giáo viên nữ theo nghề dạy trẻ là chuyện bình thường, nhưng với giáo viên nam, công việc dạy dỗ trẻ con hóa ra lại có nhiều cái hay. Hà cười thật tươi, chia sẻ về “đồng nghiệp” của mình: “Trong lớp có cô giáo lẫn thầy giáo cũng hay lắm. Thầy có cái uy nhất định nên việc sắp xếp, tổ chức lớp thuận lợi. Bên cạnh đó, một số cháu có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn, thiếu tình yêu thương của người cha nên lên lớp gặp thầy là quấn quýt, hợp tác với thầy hơn với cô”.

Thông thường, thầy Phi sẽ là người đánh giá khả năng và nhu cầu của các em có dấu hiệu TK trước khi được tiếp nhận vào trường. Công việc dù đã lặp lại không biết bao lần nhưng với thầy, đó luôn là một thách thức: “Mỗi trẻ một biểu hiện và nguyên nhân TK khác nhau, nên ngoài kiến thức lý thuyết mình đã được đào tạo thì khả năng nhìn nhận, đánh giá dựa vào kinh nghiệm tiếp xúc với trẻ cũng rất quan trọng. Làm thế nào xác định trẻ bị TK nhẹ hay nặng luôn là câu hỏi khó”.

Hiện tại, công việc chính của cô Hà là dạy trẻ TK tại lớp, còn thầy Phi, ngoài tham gia giáo dục chuyên biệt còn làm công tác hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại cộng đồng ở Quảng Nam và Đà Nẵng.

“Các cháu có rất nhiều tài”

Chia sẻ về lý do chọn nghề dạy trẻ TK, cô Hà vẫn còn đong đầy cảm xúc bỡ ngỡ của những ngày đầu bước chân vào chuyên ngành Giáo dục đặc biệt: “Hồi đó, mình cứ nghĩ học tạm năm đầu, song song ôn thi lại ngành khác vào năm sau. Nhưng hết một năm thì bỗng thấy thích nghề nghiệp tương lai của mình vì cảm nhận đó sẽ là việc làm có ích cho nhiều em nhỏ kém may mắn”. Từ chỗ học tạm tới… học thiệt với Hà gói trọn trong năm học đầu. Và sau đó, hễ có cơ hội tham gia các lớp tập huấn tại Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh là cô lại lên đường tham gia ngay.

Chủ đề trẻ TK luôn có điều gì đó hấp dẫn cô gái trẻ khi càng tìm hiểu, nghiên cứu, càng thấy thích. Qua nhiều năm, Hà lại càng khám phá nhiều điều đáng yêu trong tâm hồn trẻ thơ của các bé TK nhất là cô giáo phát hiện các em có rất nhiều tài năng. “Các em giỏi lắm chứ không chỉ là kém hiểu biết, kém giao tiếp như nhiều người nghĩ. Có em trí nhớ tốt, nhớ số cực giỏi, có em có khả năng “chụp” những hình ảnh nhìn thấy trước mắt và vẽ lại rất đẹp. Nói chung các em đều ẩn chứa khả năng nổi trội ở một khía cạnh nào đó”, cô giáo Hà chia sẻ.

Trong khi đó, chàng sinh viên Nguyễn Trường Phi ban đầu đến với ngành này chỉ với lý do có người quen tư vấn học để dễ… xin việc làm sau khi ra trường. Nhưng cũng như Hà, lúc biết thực chất công việc tương lai, thầy Phi có thể tự tin khẳng định sẽ gắn bó mãi mãi như một tình yêu lớn và một thách thức mà bản thân phải chinh phục. Nói là thách thức bởi giáo trình, phương pháp dạy trẻ TK đến nay vẫn còn mới mẻ và chưa thống nhất. Người dạy giống như những người tiên phong vừa đi vừa học hỏi từng bước. Thế nên, dạy trẻ TK đến nay chưa là công việc dễ dàng xét ở mọi khía cạnh.

Lật lại album ảnh học trò qua các năm, thầy Phi và cô Hà như rạng ngời hạnh phúc khi nhắc nhớ tên, quê quán, hoàn cảnh của những em đã được tái hòa nhập trong 5 năm qua. “Mỗi học trò từ TK, phải học riêng lẻ đến khi có thể ra lớp với các bạn ngoài xã hội là niềm vui không gì sánh bằng. Ba mẹ vui một nhưng giáo viên vui đến 10”, thầy cô Phi-Hà tâm sự.

[nguon]Nguồn:http://www.baodanang.vn/channel/6061/201409/nhu-mot-tinh-yeu-lon-2361182/[/nguon]