Lưu trữ cho từ khóa: vinh linh

Thủy Tú 2 – điểm sáng trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

Chúng tôi về thôn Thủy Tú 2 của xã Vĩnh Tú thuộc huyện Vĩnh Linh vào những ngày tháng 9. Nhìn những ngôi nhà khang trang, sạch đẹp và những con đường làng thoáng đãng đã báo hiệu một làng quê yên bình đang bắt đầu khởi sắc. Thủy Tú 2 triển khai xây dựng làng văn hóa từ năm 2000, đến nay đã vinh dự hai lần được UBND huyện và UBND tỉnh công nhận đạt danh hiệu làng văn hóa.

12032292_849629421799586_2024159269_nTrung tâm học tập cộng đồng thôn Thủy Tú 2. Ảnh: Văn Thịnh

Toàn thôn hiện có 69 hộ với 223 nhân khẩu, trong đó có 95% hộ gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa, có dân số 60% sản xuất nông nghiệp, 40% lâm nghiệp và các ngành nghề dịch vụ khác. Phát huy truyền thống của một mảnh đất giàu truyền thống cách mạng trong kháng chiến và cần cù sáng tạo trong thời kỳ đổi mới, Thủy Tú 2 đang từng bước làm thay đổi diện mạo của làng quê bằng phát triển kinh tế cũng như xây dựng đời sống văn hóa. Trong những năm qua, phong trào xây dựng nếp sống văn hóa ở khu dân cư được nhân dân thực hiện và duy trì ngày càng có hiệu quả.

Cùng với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp của chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã được người dân tích cực hưởng ứng. Ban chỉ đạo xây dựng làng văn hóa xác định đây là cuộc vận động có tính toàn diện nhằm phát huy tính dân chủ, nâng cao dân trí và phát triển kinh tế địa phương. Nhiều mô hình đã và đang được thôn triển khai và thực hiện có hiệu quả, như: Mô hình làng không có người sinh con thứ 3, mô hình thu gom rác thảitrồng rừng để bảo vệ môi trường sinh thái bền vững, mô hình thắp sáng đường quê… Trong công tác xã hội hóa xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở được làng chú trọng và đầu tư. Làng hiện có một Nhà văn hóa thể thao với diện tích 120 m2 được xây dựng có khuôn viên, sân bóng đá 972 m2, sân bóng chuyền 500 m2, một tủ sách với hơn 200 đầu sách để nhân dân vui chơi giải trí và thường xuyên hoạt động.

12048691_849629445132917_1625511236_n

Về công tác tuyên truyền, làng đã chú trọng đến công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước hàng năm hơn 35 lần vào các buổi họp đoàn thể, các ngày lễ lớn, các ngày kỷ niệm được nhân dân hưởng ứng tích cực tham gia 100%. Đặc biệt ở làng Thủy Tú 2, thực hiện tốt và đúng quy định của Chỉ thị 27/CT – TW của Bô Chính trị về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội được 100% người dân đồng tình nhất trí. Về việc cưới được làng quy định đêm trước của ngày cưới không được sử dụng nhạc sóng mà chỉ dùng băng đĩa để hát, không dùng bia rượu và ngừng hoạt động trước 22 giờ. Trong việc tang, không được tổ chức ăn uống, không gọi hồn và đốt vàng mã trong đám tang. Và chỉ được phép dùng âm thanh bằng đĩa thu sẵn nhưng không được phát trước 5 giờ, không để người chết ở gia đình quá 48 giờ theo quy định mà tất cả các việc được thực hiện gọn nhẹ, tiết kiệm, đoàn kết với tinh thần tình làng nghĩa xóm…

Có thể khẳng định, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở Thủy Tú 2 là một luồng gió mới làm thay đổi bộ mặt và diện mạo của quê hương. Kinh tế phát triển, văn hóa xã hội không ngừng được nâng cao, tình làng nghĩa xóm ngày càng được thắt chặt gắn bó. Đó chính là những kết quả để Thủy Tú 2 xứng đáng là 1 trong 42 đơn vị đạt tiêu chuẩn đơn vị văn hóa xuất sắc trong toàn tỉnh năm 2013.

Văn Hữu – Du lịch Quảng Trị.

Người nông dân “đắm đuối” với chuyện Trạng Vĩnh Hoàng

Gần mười năm nay, có một lão nông ở vùng quê xưa kia nổi tiếng với những câu chuyện Trạng (nay là xã Vĩnh Tú – Vĩnh Linh – Quảng Trị) đã cất công sưu tầm, rồi vẽ minh họa những câu chuyện đó với mong muốn lưu giữ nét văn hóa độc đáo này. Ông là Trần Hữu Chư – năm nay 70 tuổi, người chuẩn bị in một cuốn sách về truyện Trạng Vĩnh Hoàng.

tran-huu-chu-trang-vinh-hoang-quang-triÔng Trần Hữu Chư – người lưu giữ và truyền thụ Chuyện Trạng cho lớp trẻ.

Trạng Vĩnh Hoàng là một hiện tượng trào phúng độc đáo của văn học dân gian Quảng Trị, xuất hiện cách đây khoảng ba bốn trăm năm. Đây là món ăn tinh thần, là loại chuyện kể “độc nhất vô nhị” không thể lẫn lộn với các chuyện cười ở vùng khác. Có người đã so sánh Trạng Vĩnh Hoàng có nhiều đặc trưng như làng cười Gabrôv (Bulgaria).

Trạng Vĩnh Hoàng bắt nguồn từ những sự việc thật, được người kể biến hóa bằng cách cường điệu, hư cấu một cách có lý, mang tính hài hước làm cho người nghe tưởng tượng, ngạc nhiên mà cười để quên đi những khó khăn, gian khổ mà người dân phải chịu đựng. Như truyện “Cải cọp mà cày” nói về anh nông dân buổi sáng sớm dắt bò đi cày, nhưng đến sáng mới ngã ngửa là mình đang cày bằng con cọp; truyện “Bắt bọp, bắt bọp” ca ngợi dưa hấu của người Vĩnh Hoàng to đến mức cả đàn quạ chui vào ruột khoét dưa ăn mà “giết đến mỏi tay không hết” đàn quạ; hay sự lạc quan của người Vĩnh Hoàng trong chiến tranh là một ông lão bị lính Mỹ bắn đạn vào đầy đầu, đến khi thấy ngứa ngỡ là chấy, chải xuống thì toàn là đầu đạn (truyện “Chấy đạn”)…

Trong chiến tranh, Vĩnh Linh là vùng tuyến đầu ác liệt nhất, đã phải chịu sức hủy diệt tới 7 tấn bom và 70 quả đạn trên một cây số vuông. Nhưng người Vĩnh Hoàng vẫn lạc quan và họ vẫn nói Trạng và kể chuyện Trạng trong sinh hoạt hàng ngày, trong các hội nghị của huyện, trong chiến hào, trên mâm pháo, dưới địa đạo. Trải qua thời gian, Trạng Vĩnh Hoàng đã không còn giữ được “thương hiệu” sau mấy trăm năm tồn tại, nhất là những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, số người kể chuyện Trạng chỉ đếm đầu ngón tay. Nhiều câu chuyện Trạng bị tam sao thất bản và cách kể chuyện Trạng cũng dần dần mất đi.

than-dong-lang-trangCác truyền nhân của ông Chư.

“Đắm đuối” với Trạng Vĩnh Hoàng
Sinh ra và lớn lên ở ngay làng Huỳnh Công Tây (Vĩnh Tú – Vĩnh Linh – Quảng Trị) – nơi được xem là cái nôi của Trạng Vĩnh Hoàng, vì thế mà những câu chuyện Trạng đã gắn chặt với cuộc đời của ông Trần Hữu Chư ngay từ bé. Ông Chư cho biết: Mỗi lần đi hội họp ở đâu, rỗi rãi, biết tui là người Vĩnh Hoàng, anh em ở các xã, huyện khác đều bắt tui kể chuyện Trạng cho bằng được.

Ông Chư kể: Tui có một người bác họ tên là Trần Hữu Khuê, vốn là một giáo viên thời Pháp thuộc, ông cùng gia đình tản cư vào Nam hoạt động cách mạng. Thời Mỹ- ngụy, ông Khuê đã bị kết án 20 năm tù khổ sai và 10 năm biệt xứ đày ra Côn Đảo. Sau ngày giải phóng, ông trở về sống tại Tp.HCM, hai bác cháu vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Hơn 10 năm trước, tui có nhận được một bức thư của bác kèm theo lời gợi ý là phải ghi lại những câu chuyện dân gian của quê hương. Đọc xong thư, tui suy nghĩ nhiều lắm vì bác mình ở xa quê nhà bao nhiêu năm rồi, sức đã yếu vậy mà vẫn nhớ về cội nguồn, nhớ tới quê hương. Từ nỗi nhớ đau đáu của người bác họ, tui nghĩ mình phải khôi phục, sưu tầm những câu chuyện Trạng bằng được, nếu không con cháu mai sau sẽ không còn biết Trạng Vĩnh Hoàng là thế nào. Lúc này, ông Chư đã đến tuổi về hưu, công việc cũng thư thả, ông có nhiều thời gian chuyên tâm hơn cho việc sưu tầm.

nguon-goc-trang-vinh-hoangÔng Chư cho biết: Quá trình tìm tòi, sưu tầm gian nan lắm. Do tìm hiểu sưu tầm muộn màng nên những “cây” kể chuyện Trạng lần lượt qua đời, người còn thì tuổi đã cao, sức yếu như cụ Nguyễn Sở, Võ Nông, các cụ nhớ câu được câu mất. Nhiều câu chuyện hiện nay có dấu hiệu tam sao thất bản như “Bọ mạ mi mô?”. Hành trình sưu tầm, biên soạn của tui gặp khó khăn nhất chính là ngôn ngữ của Trạng. Do yếu tố lịch sử, nhiều ngữ âm, từ cổ xưa giờ rất ít sử dụng trong đời sống hiện nay. Trong lúc đó, đặc điểm giọng nói của người Vĩnh Hoàng nặng, mất thanh ngữ, phát âm rất đặc biệt ở thanh hỏi(?), ngữ điệu thay đổi nhanh ở đầu, kéo dài ở cuối, lên cao xuống thấp? tạo cho giọng kể sự ngộ nghĩnh và lôi cuốn người nghe.

Một đặc điểm nữa của Trạng Vĩnh Hoàng là lớp từ cổ, từ địa phương pha từ đệm nghe rất hài như: hấy, há, đực bọ, lạo, ôốc doộc, ôông ngai. Như trong các truyện “Bắt bọp”, “Cây ớt, “Ăn khoai lang nghẹn cổ”, “Cây khoai bò hai tỉnh”, “Đi câu cá đô”… đã tạo nên đặc thù riêng cho Trạng Vĩnh Hoàng. Nhưng đến nay, do chịu ảnh hưởng chung của việc giao thoa văn hóa giữa các vùng, miền nên những từ này ít được sử dụng nên Trạng hôm nay không truyền đạt được trọn vẹn nội dung.

Để sưu tầm được những câu chuyện cổ nhất, tui thường đến nhà các cụ cao niên trong làng. Mỗi lần như vậy, tôi vừa nghe vừa ghi để đưa những câu chuyện Trạng về đúng nguyên bản của nó. Sau gần 10 năm chịu khó tìm tòi, sưu tầm, đến nay tui đã sưu tầm được hơn 30 câu chuyện Trạng. Sắp tới, tui dự định sẽ xuất bản một cuốn sách Trạng Vĩnh Hoàng mà tui cùng một số anh em sưu tầm, biên soạn được.

Họa sĩ làng
Từ ngày đi sưu tầm Trạng Vĩnh Hoàng, mọi người trong làng lại thấy ông Chư ngồi cặm cụi bên giá vẽ. Lúc đầu ông vẽ trên những tờ giấy học trò, sau thấy bà con hàng xóm tấm tắc khen, ông lại vẽ lên tường của nhà văn hóa xã. Lúc vẽ bức tranh này, ông Chư dù đã 70 tuổi nhưng cả tuần vẫn leo lên ban công Nhà văn hóa xã để ngồi vẽ. Rồi ông vẽ ra mặt sau của những tờ lịch. Tranh của ông được bà con khen ngợi nhiều, ông liền mang ra trưng bày ở Nhà văn hóa của thôn.

huu-chuSau nhiều năm cần mẫn bên chiếc giá vẽ tự tạo, đến nay, ông Chư đã mô phỏng lại được tất cả những câu chuyện mà ông đã bỏ công sưu tầm, biên soạn trong bấy lâu nay bằng hình ảnh. Dự định của ông là sẽ cho in những bức họa này kèm với những tác phẩm ông đã bỏ công sưu tầm.

Để biến những bức vẽ và những câu chuyện ông sưu tầm thành cuốn sách quả là một chặng đường dài. Bởi hiện nay, một lão nông như ông lấy đâu ra một số tiền hàng chục triệu đồng để in. Tất cả còn chờ vào sự giúp đỡ của các cấp chính quyền nên chưa biết lúc nào mới có sách. Tiếng thở dài não nề của lão nông đã làm cho chúng tôi không khỏi chạnh lòng trong suốt chặng đường về phố thị.

Theo CAND

Bài ca Vĩnh Linh

cauhienluong

Vĩnh Linh ơi trăm mến ngàn thương
Quê ta đó đứng đầu sóng gió ơ…. ớ ờ..

Vĩnh Linh là một huyện phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp huyện Hướng Hóa; phía Nam giáp huyện Gio Linh và phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Dân số 89.027 người trong đó có 2.175 người dân tộc Vân Kiều, toàn huyện có 20.323 hộ; 22 xã, thị trấn; 191 làng, bản, khóm, phố.

Với chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Vĩnh Linh trở thành địa đầu giới tuyến. Ngày 25/8/1954, tên thực dân Pháp cuối cùng rút qua cầu Hiền Lương sang bờ Nam. Vĩnh Linh hoàn toàn giải phóng. Và cũng ngày này, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh chọn làm ngày truyền thống của mình.

Mười năm hòa bình ngắn ngủi (1954 – 1964) Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh được sự giúp đỡ của Đảng, Chính phủ, đồng bào cả nước và bằng tất cả sự thông minh, năng động cần cù của mình, Vĩnh Linh đã nhanh chóng đổi thịt thay da.

Từ một vùng quê nghèo “ăn cơm bữa diếp” (ba ngày mới có một bữa cơm) trở thành “viên kim cương đầu giới tuyến” như nhà văn Nguyễn Tuân đã ca ngợi.Ngày 8/2/1965, thất bại trước chiến trường miền Nam, Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Vĩnh Linh bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho chiến trường miền Nam.

Để đảm bảo cho chiến đấu, 4,5 vạn người dân Vĩnh Linh  (người già, trẻ em) được sơ tán ra miền Bắc. Lực lượng còn lại bám trụ quê hương vừa sản xuất vừa chiến đấu ở cả ba chiến trường (bảo vệ Vĩnh Linh, chi viện cho đảo Cồn Cỏ, chia lửa với bà con Gio Linh, Cam Lộ). Bảy năm chiến đấu kiên cường chống chiến tranh phá hoại khốc liệt của giặc Mỹ, quân và dân Vĩnh Linh tiếp tục lập nên nhiều chiến công vang dội

cauhienluong

Sông  Hiền Lương lại xanh mềm lá cỏ
Vết chém Hiền Lương trái đất chưa nguôi  
Câu hỏi lớn biển dập dồn hỏi đá
HỠI TỰ DO CHO MỖI ĐỜI NGƯỜI !

Bảy năm chiến đấu kiên cường chống chiến tranh phá hoại khốc liệt của giặc Mỹ, quân và dân Vĩnh Linh tiếp tục lập nên nhiều chiến công vang dội, xứng đáng với vị trí lịch sử mà tổ quốc giao phó … Với khẩu hiệu “một tấc không đi, một li không rời”, “mỗi làng xã là một pháo đài chiến đấu”, đến cuối năm 1968, gần 70 làng của 15 xã, thị trấn ở Vĩnh Linh đã có làng hầm, địa đạo với tổng chiều dài lên đến trên 40km. “Làng hầm” lúc này không chỉ đơn thuần là những đường hầm trú ẩn và chiến đấu như Củ Chi mà trở thành một không gian sinh tồn.

Sự hiện diện của hệ thống “làng hầm” đã thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Khu ủy Vĩnh Linh trong thời khắc quyết định của lịch sử; là minh chứng cho ý chí quyết tâm cao độ, sức sống mãnh liệt và sự lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của quân dân Vĩnh Linh trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ.

Ngày 1/1/1967, với những thành tích đặc biệt xuất sắc, Vĩnh Linh – một địa phương tương đương cấp tỉnh đầu tiên của cả nước được Quốc hội và Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đến nay toàn huyện có 36 đơn vị, 17 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT và Anh hùng lao động, 185 bà mẹ Việt Nam anh hùng (hiện 9 mẹ còn sống đang được phụng dưỡng), nhiều đơn vị hai lần được tuyên dương anh hùng.

Ngó bên tê Trường Sơn một dải
Nghe bên ni sóng vỗ Cửa Tùng
Vĩnh Linh ơi trăm mến ngàn thương

Đặc biệt quân và dân Vĩnh Linh có 8 lần được Bác Hồ gửi thư khen. Trên mảnh đất Vĩnh Linh lũy thép anh hùng hiện có 68 di tích lịch sử văn hóa được Trung ương, Tỉnh xếp hạng và có 3 di tích là địa đạo Vịnh Mốc, đôi bờ Hiền Lương, bến đò B Tùng Luật được xếp hạng đặc biệt cấp quốc gia.

Vĩnh Linh Thép và Hoa

https://www.youtube.com/watch?v=qo8PVInA_ac