Chuyên mục lưu trữ: Tin trong làng xã

Làng Trạng nói chi lạ…

“Ga ni ga mô/ ga mô ri eng/ ga ni ga chi/ O ni đi mô/ o mô đi ra, o mô đi vô/ đi vô ga mô ri…”. Mới thoạt nghe một loạt câu nói trên dễ nhầm tưởng là người… Nhật đang nói chuyện, nhưng thật ra đó là một nhóm dân Vĩnh Hoàng đang đi trên tàu chợ!
tran-huu-chu-trang-vinh-hoang

Ông Trần Hữu Chư đã lưu lại những câu chuyện trạng của làng bằng những bức tranh vẽ – Ảnh: H.QUÂN

Thật tiếc là chỉ có thể ghi lại chữ chứ không thể đưa cái phần ngữ âm lên báo. Bởi với chất giọng đặc sắc ấy, cộng với phương ngữ của vùng đất này, chỉ cần nghe giọng Vĩnh Hoàng cất lên đã thấy vui, chưa nói đến một khả năng ứng tác chuyện trạng dân gian như một di sản văn hóa riêng có.

Thật ra cái câu nghe như tiếng Nhật nói trên chỉ đơn giản là các cách nói của câu hỏi “Ga (xe lửa) này là ga nào đây… Cô này định đi đâu… Cô nào đi chuyến tàu vào… cô nào theo chuyến tàu ra… Tàu sẽ vào ga nào đây…”.

Tiếng Pháp cộng tiếng Nhật (!?)

Dân Quảng Trị thấy ai nói khoác (tất nhiên pha chút hài hước) thể nào cũng bảo: “Tay này chắc quê gốc Vĩnh Hoàng”. Cái vùng đất phía đông huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian lưu tâm nghiên cứu.

Ngôi làng này là chiếc nôi của những câu chuyện trạng nổi tiếng từng được ví như làng Gabrovo trứ danh của nước Bulgaria. Tính nết khôi hài cùng với thổ ngữ là lạ đã sinh ra biết bao câu chuyện trạng cười “bể bụng”.

Ví như câu nói “ga mô ri eng?” hay “ga mô ri o?”, là cư dân khu 4 (vùng Thanh Nghệ Tĩnh – Bình Trị Thiên) ai cũng hiểu được nội dung, nhưng đưa nó thành chuyện trạng thì chỉ có thể là…Vĩnh Hoàng!

Một người kể: “Bựa nớ đi tàu bay ra nác ngoài, chộ cái dà ga đại chang bang, bơ hỏi một đực: “Ga mô ri eng?”. Đực ta nọ ư hự răng, trặc sang cái mụ tê hỏi “Ga mô ri o?” cụng nọ ư hự, sau cả mấy đực chụm trốc hội ý rồi hỏi lại dà choa là câu trước nghe dư tiếng Pháp, câu sau nghe dư tiếng Nhật mà nỏ phải tiếng Nhật hay tiếng Pháp, cả tàu bay nỏ ai biết miềng nói cấy chi!”. Hóa ra đơn giản chỉ đi máy bay ra nước ngoài, thấy cái nhà ga quá to, mới hỏi: Ga này là ga nào hả anh? Nhưng người ta không trả lời được, quay sang hỏi một chị: Ga này là ga nào chị? chị ấy cũng không trả lời được, sau đó tất cả bọn họ chụm đầu hội ý để đoán xem hai câu hỏi là ngôn ngữ nước nào, nghe như tiếng Pháp và tiếng Nhật nhưng không phải vậy!

Về Vĩnh Hoàng, có thể nghe hàng trăm câu chuyện liên quan đến phương ngữ của dân làng như chuyện “Kí lộ chao cặng mô ri o?” (cái chỗ rửa chân ở đâu vậy hả cô?). Chuyện hỏi cung tù binh Mỹ bằng giọng Vĩnh Hoàng hồi chiến tranh, chuyện “Bọ mạ mi mô”…Trong số những người làng có năng khiếu kể chuyện trạng phải kể tới hai ông Trần Đức Trí và Trần Hữu Chư.

“Rứa chú mi đã nghe chuyện Lợ một buội cày”(Lỡ một buổi cày) chưa?”, ông Trần Đức Trí – một nghệ nhân chuyện trạng Vĩnh Hoàng ở làng Huỳnh Công Tây thuộc xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị), mở đầu câu chuyện với một cái giọng rất… trạng. “Bựa nớ, dà có mấy méng rọong, tui ưng đi cày sớm nên dặn vợ chủn bị cơm nác.Trời đạ sáng chi mô,vợ tui đạ mần sặn một bù nác chè đặc với một mo xôi xáo vợi khoai, bay mùi ra chi thơm.Tui nghe đạ khoái, liền lùa bò một mạch tận rú. Chộ trời chưa rạng, tui cho bò ăn một chặp. (dịch: Bữa đó, nhà có mấy mảnh ruộng, tui thích đi cày sớm nên dặn vợ chuẩn bị cơm nước. Trời đã sáng gì đâu, vợ tôi đã làm sẵn một bầu nước chè đặc với mo cơm nếp xáo với khoai, bay mùi ra thơm lắm. Tôi nghe đã thích liền lùa bò một mạch tận rừng. Thấy trời chưa sáng, tôi cho bò ăn một lúc).

Cứ thế, ông vừa kể bằng giọng Vĩnh Hoàng, còn chúng tôi ghi lại qua người phiên dịch. Câu chuyện tiếp tục rằng sau đó, ông chọn một con trong đàn bò rồi buộc vào cày và bắt đầu cày ruộng. Cày một hồi đến khi mặt trời lên mới biết cái con đang kéo cày không phải là bò mà là… cọp. “Sặn rạ trung tay, tui phắt một lát thiệt năng, niệt cày đứt mần đôi. Lạo cọp khiếp, chạy một mạch vô rú khôông dòm lại. Rứa là tui lợ một buội cày!” (sẵn cái rựa trong tay, tôi chặt một nhát thật mạnh, cày đứt đôi. Lão cọp khiếp, chạy một mạch vô rừng, không nhìn lại. Vậy là tôi lỡ mất một buổi đi cày).

Giọng ông nặng trịch, người Quảng Trị gọi là nặng cạy cạy. Thanh hỏi, thanh ngã đều biến thành thanh nặng, thanh ngang và huyền khi mờ khi tỏ. Lại thêm phương ngữ Vĩnh Hoàng, từ cổ và từ đệm thoắt ẩn thoắt hiện trong câu chuyện. Cùng với cái giọng nhấn nhá lên xuống, lúc nhanh lúc chậm của một cao thủ kể chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Dù đã nghe đến cả ngàn lần vậy mà dân làng vẫn thích ngồi nghe ông kể và cười ngả nghiêng như mới nghe lần đầu. Tôi hỏi một đồng nghiệp ở cách đó mấy cây số: “Ông hiểu gì không?”. “Vừa nghe vừa đoán nhưng cũng như vịt nghe sấm”.

nguon-goc-trang-vinh-hoang-quang-tri

Gìn giữ di sản cho làng…

Chuyện trạng Vĩnh Hoàng từng được cố tiến sĩ văn học Võ Xuân Trang dày công sưu tầm,biên soạn và in thành sách. Sở Văn hóa thông tin tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) đã từng tổ chức hội thảo về chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Những câu chuyện trạng đậm đặc tính cách Quảng Trị “cười quên khổ” và thứ thổ ngữ “nặng hơn cả Quảng Trị”, dẫu chỉ nghe một lần cũng thật khó quên.

Đã có một giai đoạn Phòng Văn hóa thông tin huyện Vĩnh Linh tổ chức hội thi kể chuyện trạng nhằm phát huy sự sáng tạo của người dân với những câu chuyện đặc thù Vĩnh Hoàng, nhiều nghệ nhân dân gian đã nổi lên từ những hội thi như thế, tuy nhiên chỉ được một thời gian phong trào lại lắng xuống. Những câu chuyện của người làng Vĩnh Hoàng vốn được sinh ra để mang lại tiếng cười lạc quan cho nhau bên ấm chè xanh, bên nồi khoai lang bở chứ không phải để hội hè thi thố, và dường như khi cuộc sống càng sung túc, bớt phần cơ cực, những câu chuyện trạng đầy ắp lạc quan càng vắng dần. Duy có ông Trần Hữu Chư sợ rằng những câu chuyện một thời mất đi, ông đã giữ lại bằng cách vẽ những câu chuyện ấy thành những bức tranh, mỗi bức tranh là một câu chuyện ấm áp hồn hậu và lạc quan của đời dân, đời làng qua bao dâu bể thời gian…

Vùng đất này xưa có thành ngữ “ăn cơm bữa diếp” – nghĩa là hai ngày mới được ăn một bữa cơm, hỏi ăn cơm chưa nghe trả lời ăn từ “bữa diếp” nghĩa là ăn cơm từ… ngày kia. Cuộc sống cơ cực ngày xưa như vậy đã khiến người dân lạc quan như một tính cách được hình thành từ chính hoàn cảnh sống. Những năm chiến tranh, đây cũng là vùng đạn bom khốc liệt, truyền thống “trạng” càng được nối tiếp, thành một thứ năng lượng tinh thần động viên dân làng vượt lên thử thách mà sống, mà chiến đấu.Và đấy là thứ hương hỏa tinh thần vô giá, đã lặn vào máu thịt đời dân nơi đây, và họ mang theo, dù đến chân trời góc bể nào đi nữa!

Nguồn: Tuổi trẻ online

Bom bi ổi

Tui nhớ một lần đi Bàu Sậm chặt củi, nhặt được quả bom bi ổi. Tui thì mừng như tìm được vàng. Mạ tui với mấy ông cậu thì lo sợ chết khiếp.

bom-bi-oi1Rứa là bựa nớ, lâu lắm rồi từ khi e tui mới 5 hay 6 tuổi chi đó. Tui mới được nhà cho đi theo lên côi Cồn chặt củi. Hồi nớ nhà ông ngoại tui có nuôi một bầy trâu e gần chục con. Rứa là buổi sáng nớ nhà tui dậy thiệt sớm, cơm đùm gạo bới, nước non đầy đủ. Hai con trâu kéo thì đã cho ăn no từ lúc hai ba giờ sáng chi đó rồi. Chỉ có người nậy mới thức dậy đem cỏ cho trâu ăn được chớ nhỏ như tui đây ngủ như chết tê có biết chi mô. Mà cho trâu ăn cũng phải biết cách chứ không là hư hết việc. Con mô kéo xe là phải cho ăn riêng, để phần cỏ ngon bồi dưỡng. Còn mấy eng mà không kéo cò chi là cho ăn riêng, thậm chí là không cho ăn nữa.

Khi mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ. Liềm rạ, lạt lẹo, đòn xóc, găm, đồ ăn thức uống chi đã bỏ lên xe hết rồi là cải hai con trâu đực kéo vô hai chiếc xe đi thẳng một mạch từ sớm tinh mơ cho tới khi bóng người khoảng chục thước mới tới Cồn.

Tới nơi rồi chưa phải làm liền mô mà phải biết tìm “chọ”. Tìm chỗ mô có củi thiệt nhiều, tốt mà dễ chặt đã mới dừng lại. Đặt chọ xong là mỗi người một việc cứ rứa mà làm. Người thì chặt, người thì bó, người thì sương, người thì chự trâu,… Rứa là tui nhỏ nhất nên mọi người phân cho tui việc khỏe re đó là chự chục con trâu nớ. Mà trâu nhà ông tui được cấy là con mô con nấy đen thui thui, tròn trùng trục như cấy thuyền thúng của Kè Lái mà bỏ côi chàn bếp lâu ngày. Con mô con nấy láng lườm đi.

Công việc của tui cũng thiệt chi là nhẹ nhàng. Trâu thì thả ăn trửa động a, mình thì bắt cào cào, chấu chấu rứa chơi thôi. Rứa là đang đòi dọi con chấu chấu cồ thiệt to đến bụi cây xeng thì không chộ con chấu chấu mô nữa cả. Đang loay hoay tìm thì đột nhiên ngó chộ thấy một trấy chi tròn tròn bằng quả bưởi choai choai thiệt là đẹp nằm đới côộc cơn cây xeng. Ngó queng ngó quích không chộ ai hết để mà hỏi coi thử trấy chi đây. Rứa là ngắm nghía một chặp rồi đặt lên để xuống ngó ưng ý lắm rồi mới đem về chọ để.

bom-bi-oiĐem về chọ để được một chặp thì mạ tui với mấy cậu mới sương củi về ngó chộ rứa là hỏi: Mi lặt trấy ni ở mô ri Tèo? Tui mới nói “con lặt ở đới côộc cơn cây xeng á”. Ông cậu tui nóng tính mới hỏi tiếp “Rứa cháu có biết trấy chi đây không?” Tui nghĩ thầm trong bụng “trấy chi ai mà biết”. Tui chưa kịp trả lời thì mạ tui nói tiếp “Trấy bom bi đó, mi có ưng chết không?” Lúc nớ rứa là tui ngó chộ mặt mụi mạ tui với mấy cậu tái xeng đi mà tui thì có sợ chi mô, đã nổ mô mà chết, đang còn sống nhăn răng ra đây phải à.

Mà khen cho thằng Mỹ hắn làm quả bom bi ổi chi cũng đã đẹp. Quả tròn to như đực trôốc cúi, bên ngoài có một lớp vỏ bằng gang thép, xung quanh có mấy sợi dây đai nữa. Quả mà tui nhặt được đã bị bong mất lớp vỏ bên ngoài rồi nên để lộ ra e có hàng trăm viên bi nhỏ như viên bi trong may- ơ xe đạp. Ngó vô bắt mắt lắm, e mấy eng mấy ả chộ cũng ưng nữa đã.

May răng mà quả bom nớ bị xịt rồi, hắn không nổ, chứ e nổ thì chừ tiêu rồi có mô mà ngồi đây nữa. Rứa là mấy người trong nhà tui bựa nớ được một phen chết khiếp với quả bom bi ổi của tui.

Sưu tầm

Làng 400 năm nói trạng, bắt “hổ đi cày thay trâu”

Ở miền quê lụt bão liên miên, trưa hè nắng rát, những câu chuyện trạng Vĩnh Hoàng (Quảng Trị) mang đến tiếng cười khỏe khoắn, giúp nông dân thêm yêu cuộc sống. Theo các bô lão, làng Vĩnh Hoàng được thành lập khoảng thế kỷ 17-18, nay là thôn Huỳnh Công Tây, xã Vĩnh Tú (Vĩnh Linh, Quảng Trị). Từ ngày lập làng, những câu chuyện trạng bắt đầu được sáng tác và lưu truyền, tiếp nối cho đến nay khoảng 400 năm. Vĩnh Hoàng xưa có nghề trồng dưa đỏ nổi tiếng khắp vùng. Để nói về kích cỡ của quả dưa, người dân sáng tạo ra câu chuyện “bắt – bọp mỏi tay”. Chuyện kể rằng, một hôm nông dân ra đồng thăm ruộng dưa thì thấy yên ắng. Bỗng thấy quả dưa có lỗ đỏ, lại gần có nhúm lông chim thò ra. Người nông dân bịt lỗ lại, chậm rãi thò tay vào bắt ra không biết bao nhiêu là quạ, bọp (bóp) chết chim đến mỏi tay. Chỉ thoáng thả tay ra là quả dưa như như muốn bay lên trời. “Quả dưa đỏ to đến độ chứa được cả bầy quạ”, ông Trần Đức Trí, 77 tuổi, kể chuyện giọng luyến láy, đôi mắt bí hiểm gợi trí tò mò cho người nghe.

lang-noi-trang-vinh-hoangÔng Trí kể lại câu chuyện phóng đại về độ lớn của quả dưa làng Vĩnh Hoàng. Ảnh: Hoàng Táo

Ông Trí là số ít người có năng khiếu kể chuyện còn sót lại của làng trạng Vĩnh Hoàng. Khoảng 10 năm trước, khi đôi tai chưa nghễnh ngãng, ông chuyên đi kể chuyện trạng Vĩnh Hoàng khắp tỉnh Quảng Trị. “Cuộc sống vất vả, những câu chuyện trạng tiếu lâm giúp người dân quên đi cực nhọc, giải tỏa tâm lý để hăng hái lao động”, ông Trí nói.

Lão nông này kể, một bữa ông dắt bò ra đồng sớm, cày nhanh cho thoát cái nắng oi bức mùa hè. Chỉ trong chốc lát đã cày xong một luống khiến ông ngỡ ngàng. Đến khi trời tảng sáng, nhìn lại thì phát hiện một con hổ đang kéo cày. “Sẵn cây rựa trong tay, tui chặt phát đứt cày, hắn chạy mất. Thế là mất buổi cày”, ông Trí kể chuyện mất buổi cày.

“Cọp hung dữ ai cũng sợ, riêng quê tôi thì nó đi cày thay trâu”, ông Trí hóm hỉnh nói.

Cho đến thời kháng chiến và cuộc sống hiện đại sau này, chuyện trạng được sáng tạo thêm, biến thiên theo năm tháng. Ông Trần Hữu Chư kể câu chuyện trạng hơi hướng hiện đại: “Thức giấc trong hầm thì sờ thấy có thêm đứa con mô ra nóng hổi. Tỉnh giấc mới biết là quả bom giặc ném rơi trúng hầm. Trong kháng chiến gian khổ, người dân không còn sợ bom đạn nữa, sống chung với đạn bom mà sáng tác ra chuyện trạng”.

Kể chuyện trạng ở địa phương hiện nay chỉ còn trên mười người, trong đó có ông Chư. Nhằm phổ biến đến thế hệ sau, ông thường xuyên đi kể chuyện trạng ở các trường học trong xã, huyện. Lão nông 76 tuổi này đã dành gần 10 năm sưu tầm được khoảng 70 chuyện của cha ông. Những lúc rảnh rỗi, ông lại chuyển thể câu chuyện trạng thành những bức tranh để thêm phần sinh động.

lang-noi-trang-vinh-hoang-2Ông Trần Hữu Chư (bên trái) 10 năm sưu tầm chuyện trạng để lưu giữ văn hóa cha ông. Ảnh: Hoàng Táo

Những năm gần đây, trường cấp 1, 2 xã Vĩnh Hoàng thường đưa những câu chuyện trạng vào các tiết học ngoại khóa, những buổi văn nghệ. Nhờ đó, 3 em nhỏ của làng Vĩnh Hoàng được bồi đắp, nay có năng khiếu kể chuyện không kém ông cha.

Theo ông Chư, vùng quê Vĩnh Hoàng không được thiên nhiên ưu đãi, lụt bão liên miên, trưa hè nắng rát. Những câu chuyện trạng tiếu lâm Vĩnh Hoàng mang đến tiếng cười khỏe khoắn, hồn nhiên của người lao động.

“Những câu chuyện trạng đều có ít nhiều yếu tố thực tế cuộc sống, người dân nói phóng đại lên để mua vui. Người kể hư cấu, cường điệu một cách hợp lý để mang lại sự bất ngờ, khiến người nghe tưởng tượng mà cười. Cái cười ở đây ngạo nghễ, nêu bật điểm mạnh của mình để thắng mọi gian nguy từ thiên nhiên đến con người”, ông Chư nói về sự khác biệt của chuyện trạng Vĩnh Hoàng.

Khẳng định chuyện trạng Vĩnh Hoàng là nét đẹp văn hóa cần bảo tồn và phát triển. Ông Hoàng Kim Khanh, Phó chánh văn phòng huyện Vĩnh Linh cho hay, hàng năm huyện đều tổ chức ngày hội văn hoá, trong đó trạng Vĩnh Hoàng luôn được chú trọng. “Những năm gần đây, huyện đã quan tâm bồi dưỡng, phát triển trạng Vĩnh Hoàng trong giới trẻ, những câu chuyện mới gắn với cuộc sống hiện đại”, ông Khanh thông tin.

Hoàng Táo