Chuyên mục lưu trữ: Sưu Tầm

Người vẽ trạng cuối cùng làng Huỳnh Công

Ở làng trạng Huỳnh Công, xã Vĩnh Tú hiện nay chỉ còn lại duy nhất ông Trần Hữu Chư biết vẽ tranh trạng dựa theo những câu chuyện tiếu lâm hằng ngày…

tran-huu-chu-ve-chuyen-trang

Vẽ tranh bằng bút tre.

Có lẽ câu chuyện của chúng tôi với những người quản lý văn hóa địa phương sẽ không dài thêm nếu chỉ nói về việc không có người kế tục việc vẽ trạng, mà còn tiếc nuối đến rơi nước mắt khi chứng kiến cảnh nghệ nhân cuối cùng phải dùng cả que tre để vẽ, tấm lịch làm tranh…

Dùng tre làm… bút vẽ

Sau những câu chuyện cười rôm rả ở làng Huỳnh Công, chị Hoàng Dạ Hương, Trưởng ban Văn hóa xã Vĩnh Tú nét mặt bỗng nhiên nặng trĩu khi kể đến nghệ nhân cuối cùng của làng còn vẽ được tranh trạng. Đó là ông Trần Hữu Chư, năm nay đã bước qua tuổi lục tuần, trong khi người kế tục thì không có, tranh không bán mà chỉ vẽ cho vui vậy, ngộ nhỡ không may ông Chư mất đi thì không có ai truyền dạy lại cái tinh túy của văn hóa làng Huỳnh Công thì thật đáng buồn.

Nhắc đến ông Chư, chị Hương không giấu nổi xúc động bảo: “Chị chỉ tiếc là không thể giúp cho ông Chư nhiều hơn, ngoài việc mua mấy lọ mực của học sinh hay vẽ đến biếu, cũng không mua được cho ông một giá vẽ cho đàng hoàng. Ông ấy thường vẽ tranh trạng bằng niềm say mê hiếm có. Vì không có tiền mua giá vẽ nên ông thường vẽ vào mặt sau của những tờ lịch khổ lớn. Vẽ xong, cái thì ép dưới mặt bàn, cái thì treo lên tường, cái thì treo đầu giường. Treo chật chỗ rồi ông lại dồn thành tệp đem vào buồng cất, mỗi khi có đám trẻ trong làng đến chơi ông lại lấy đưa cho mỗi đứa một tờ chơi”.

Nghe kể là vậy, nhưng khi gặp ông Chư chúng tôi mới cảm phục lòng đam mê của người họa sĩ nông dân. Không có bút “xịn” như những họa sĩ thực thụ, ông dùng dao chặt một cành tre cạnh nhà, vót nhọn một đầu sau đó dùng sống dao đập toét đầu nhọn ra làm “bút lông” để vẽ. Ông lôi trong nhà ra hộp mực được chị Hương tặng từ lâu ra vẽ. Ông dè sẻn từng giọt mực đến mức không để một giọt mực nào rơi ra ngoài, khi nhấc đầu bút tre lên khỏi lọ mực thì gõ nhẹ để đảm bảo mực không bị rơi thành giọt xuống đất, không phung phí mực vào những bức vẽ thường tình…

Ông Chư cho biết: “Tui thích vẽ từ nhỏ, nhưng mà hồi đó gia đình không có tiền cho đi học vẽ. Khi vào chiến trường, hễ lúc nào rảnh tay tui lại vẽ trạng để tự thưởng lãm. Những bức vẽ đó rồi cũng theo bom đạn mà rách nát hết, mà mình cũng chỉ ngắm thỏa thuê lúc đó được chứ không thể mang theo. Bây giờ hòa bình rồi, hễ có thời gian là tui lại hòa mình vào những bức tranh trạng, đó là niềm đam mê luôn thường trực trong người, rất khó bỏ”.

Không những vẽ trạng giỏi, ông Chư còn kể chuyện trạng cũng thuộc hàng đỉnh cao, ông có thể thuộc hàng trăm chuyện kể dân gian truyền miệng từ cổ chí kim của làng Huỳnh Công. Mỗi khi có người bảo ông kể chuyện bất kỳ thời kỳ nào thì ngay lập tức ông có thể kể xuyên ngày đêm không mệt mỏi.

Rồi những chuyện trạng, chuyện nói phét đó được ông Chư trực quan hóa bằng cách vẽ tranh dựa theo chuyện. Cứ như thế, mỗi bức tranh là một câu chuyện, mỗi bức tranh là một niềm day dứt với tranh trạng, với truyền thống trăm năm nói phét trăm năm của làng Huỳnh Công.

buc-tranh-bat-ho-di-cay-tran-huu-chu

Bức tranh “bắt hổ đi cày” mà ông Chư vừa hoàn thành.

Xem trạng Bắt hổ đi cày

Tranh lạ

Sở dĩ chúng tôi dùng từ “tranh lạ” là vì từ trước tới nay chưa thấy nơi nào có truyền thống vẽ trạng như làng Huỳnh Công. Tranh phản ánh thế giới tinh thần lạc quan đầy ắp tiếng cười của người dân vùng duyên hải Vĩnh Tú. “Nếu như người làng Đông Hồ, Bắc Ninh tự hào có dòng tranh Đông Hồ lừng danh thì cớ sao làng Huỳnh Công lại không thể tự hào về làng tranh trạng không nơi nào có được”, chị Dạ Hương chia sẻ.

Dẫn chúng tôi vào “phòng tranh” bất đắc dĩ, ông Chư lôi là một tệp tranh dày bằng cả gang tay tập hợp những bức họa đặc biệt rồi “kể chuyện theo tranh”. Bức tranh đầu tiên mà ông giới thiệu có tên “bắt hổ đi cày”.

“Nội dung chuyện này lể về một anh chàng ngốc nghếch người làng Huỳnh Công, anh ta thường dậy từ lúc mặt trời chưa ló rạng để đi cày, mà trước đây xung quanh làng Huỳnh Công là rừng cây rậm rạp, hùm, beo ẩn nấp rất nhiều. Một hôm chàng ngốc dậy sớm dắt hai con bò ra đồng, anh cột bò bên bìa rừng rồi ngồi nghỉ chân hút điếu thuốc lào, khi quay lại thì một con bò đã bị cọp ăn thịt nhưng chàng ngốc không biết, chàng dò dẫm dắt bò và xách tai luôn con hổ đang ngồm ngoàm thịt bò ra ruộng buộc ách vào cổ bắt đi cày. Khi mặt trời ló rạng, con hổ mệt ngoảnh mặt quay lại thấy chàng ngốc đang quất roi sau mông liền lồng lộn phá gông chạy vào rừng, từ đó người ta không thấy hổ quay lại bắt trâu, bò của dân làng nữa. Vậy là từ đó chàng ngốc trở nên nổi tiếng khắp làng”.

bi-trau-dam-loi-ruot

Bức tranh ông lão bị trâu đâm lòi ruột vẫn chiến đấu giết chết trâu rừng.

Dựa theo chuyện này, ông Chư vẽ được bức tranh một con hổ kéo cày cạnh con bò, phía sau là người thanh niên lực lưỡng đang quất roi vào mông hổ. Một bức khác ông lại vẽ hình một chàng trai đang ghì đầu hổ xuống để buộc ách cày. Những bức họa phản ánh chuyện khó tin này mục đích gây tiếng cười như những câu chuyện tiếu lâm lưu truyền trong làng.

Một bức họa khác vẽ một cụ già đi săn trâu rừng, mặc dù bị trâu húc lòi ruột nhưng vẫn một tay dùng giáo đâm chết trâu dữ, ý nói rằng người dân Huỳnh Công Có lòng dũng cảm khó ai địch lại. Hay một chuyện khác nói về một người thanh niên sức khoẻ phi thường, khi thấy hai con trâu đực mộng húc nhau mãi không thôi, người thanh niên liền đến bên dùng hai tay túm đuôi hai con trâu nhấc bổng lên quẳng xuống sông. Dựa theo chuyện này ông Chư lại có tranh “chàng trai túm đuôi trâu”. Một bức tranh khác vẽ một ông lão bế con trâu đực mộng xuống sông đi tắm thể hiện sức khoẻ phi thường…

Theo ông Chư thì từ trước đến nay ông đã vẽ bao nhiêu bức tranh trạng giờ không nhớ rõ, cách đây mấy tháng, chính quyền địa phương đến nhà ông xin lại mấy bức tranh rồi đem treo ở nhà văn hóa thôn để khách thập phương có dịp ghé qua thì thưởng lãm. Từ đó đến nay, không thấy có người nào đến xin tranh nữa.

“Tui vẽ tranh xong để ngắm, ai thích thì cho họ chơi. Tui định đem tranh đi ép plastic nhưng mà chưa có tiền. Bọn trẻ bây giờ không thấy có đứa nào muốn học vẽ tranh như tôi, bởi chúng không đam mê, hơn thế nữa là không kiếm ra tiền nhờ vẽ trạng nên không theo”.

Ông Trần Hữu Chư

[nguonNguồn: xaluan.com[/nguon]

Lấy khoèo quèo máy bay Pháp

Hồi chống Pháp ta không bắn máy bay nên máy bay tha hồ bay lượn. Có một lần tôi gặp anh nông dân Vĩnh Hoàng, áo anh ta trạc ra bày cả ngực, vừa đi vừ bứt tóc bứt tai. Tôi hỏi:
– Eng đi mô về đó?
– Tui vừa côi máy bay xuống đây. Anh ta nói với giọng tiếc rẻ.
– Eng nói chơi hay thiệt đó? Tôi hỏi.
– Đang bỏ cả cái khoèo côi chiếc máy bay bà già của Pháp, tiếc quá! Anh ta phân trần.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Răng lại bỏ khoèo trên máy bay?

chuyen-may-bay– Đầu đuôi là ri. Ngày hôm qua, cà nhà tui đi vắng. Thằng bà già của Pháp mò vô thấy tréc cá chuồn của tui treo gần cửa. Rứa là hắn vớ luôn cả tréc cá. Sáng ni, ăn quen bén mùi, lại mò vô nữa. Trời mới tờ mờ sáng đã nghe tiếng máy bay kêu rè rè. Thằng con tui kêu to: “Cha ơi! Máy bay đó!” Tui dặn hắn chớ chối, để cha quèo. Khi hắn sà xuống trửa cươi, thằng phi công nhìn ngang nhìn ngửa tìm tréc cá. Thấy tréc cá treo đúng chỗ cũ, hắn cho máy bay đứng im. Lúc đó, tui nấp trong đống rơm trửa cươi, tui ngóc cổ dậy, lấy cấy khoèo quèo đúng bánh xe máy bay của hắn. Hắn thấy động, định bay lên nhưng tui trì cứng không lên được. Tui trì mãi, hắn ọ ọ mấy tiếng rồi nhấc nổi cả tui lên. Sợ mất cái khoèo nên tui cứ nắm khoèo rồi lủng lẳng theo máy bay lên cao. Sẵn cái áo đứt nút, tui mới lái chiếc máy bay hướng về Bàu Thủy Ứ. Máy bay qua bàu, tui thả tay nhảy xuống rơi xuống đúng vào một chiếc thuyền chở người đi làm bên đôộng Hàn về. Lúc đầu, tưởng tui là phi công nên họ sẵn sàng đòn gánh, cào, cuốc, May họ nhận ra tui là người Vĩnh Hoàng ngay, nếu không thì tui cũng bị một trận nhừ tử.

Sưu tầm

Văn học dân gian Quảng Trị

Quảng Trị là một vùng đất giàu có vốn văn hoá phi vật thể, trong đó văn học dân gian có vị trí hết sức đặc biệt. Văn học dân gian Quảng Trị là sản phẩm chứng tỏ sức sống mãnh liệt của dòng văn học truyền khẩu.

Xét giá trị nội dung và nghệ thuật, văn học dân gian Quảng Trị có những nét riêng, đóng góp cho văn học dân gian Việt Nam thêm phần phong phú. Văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại (huyền thoại, huyền tích, tục ngữ, câu đố, truyện cười, tuồng hài…) song phong phú,đa dạng và giàu màu sắc địa phương và có thể phân thành 4 mảng chính là ca dao-dân ca, Tục ngữ-câu đố, Truyền thuyết-cổ tích-truyện trạng, hò vè.

SONY DSC

CA DAO – DÂN CA

Nói đến dân ca là nói đến phương thức diễn xướng (bao gồm cả hình thức diễn xướng và môi trường diễn xướng) và các làn điệu. Dân ca lấy khung cảnh làng quê, đồng ruộng, mái đình, giếng nước, cây đa… làm môi trường diễn xướng. Ca hát gắn với con người từ khi lọt lòng đến khi nhắm mắt xuôi tay. Ca hát gắn với lao động, với sinh hoạt giải trí vui chơi, với sinh hoạt gia đình, sinh hoạt thôn xóm… Nhưng tuỳ nơi tuỳ lúc, tuỳ đối tượng sử dụng và thưởng thức mà lúc nó được hát bằng hình thức tập thể, lúc thì chỉ một cá nhân biểu diễn.

Ca dao- dân ca của bất cứ miền nào trước hết cũng là tiếng ca của nghĩa tình, tiếng nói của yêu thương. Trong sinh hoạt gia đình, làng xã, lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi tiếng nói của con tim đã đã ở cung bậc cao nhất, người lao dộng dùng lời ca để bày tỏ tâm tình trước cảnh vật, trước những biến diễn của cuộc đời và trao đổi tâm tình với nhau. Tính trữ tình, bởi vậy thấm đượm trong nội dung lẫn âm điệu của các khúc hát dân gian. Một chút buồn thoáng qua của con người trước cảnh vật:

Chim kêu ghềnh đá gẫm thân thêm buồn

Một tình cảm thành kính dâng lên cha mẹ:

Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già

Việc tìm kế sinh nhai nhưng người Quảng Trị luôn nhớ về quá khứ, nào công cha, nghĩa mẹ vô bờ bến, tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gán bó dù sông cạn đá mòn:

Mẹ thương con qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ biết mấy  thu gặp chàng

Tất cả những biểu hiện khác nhau của mối quan hệ giữa con người với con người, tất cả những cung bậc phong phú, đa dạng, tinh tế của tình cảm con người, ca dao – dân ca đã “thấu đến chân tơ kẻ tóc” (chữ dùng của Xuân Diệu) và đã nói bằng một tiếng nói đằm thắm, sâu lắng, thiết tha. Tình cảm ấy mở rộng ra, nâng lên thành tình cảm đối với quê hương đất nước, thành tình cảm giai cấp, nghĩa đồng bào, và sau này trong thời đại mới là nghĩa quân dân, tình dân đối với Cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ và tình nam Bắc ruột thịt. Những biểu hiện khác nhau ấy của tình riêng, nghĩa chung trong ca dao – dân ca miền nào cũng có. Vấn đề đặt ra là cần tìm ra những sắc thái riêng. “Những óng ánh riêng” trong cách biểu đạt tình cảm của ca dao dân ca mỗi miền.

Tiếp xúc với ca dao – dân ca Bình Trị Thiên, ta thấy có nhiều cách biểu đạt khác nhau về những khía cạnh tinh tế, phức tạp của tình cảm con người. Có bài ca dao hết sức mộc mạc, mộc mạc như là lời ăn tiếng nói hàng ngày, diễn đạt một tiếng long cũng hết sức giản dị, chân thực:

Đôi ta thương chắc mần ri
Bọ mẹ mần rứa, eng thì mần răng?

Có trường hợp là một tiếng nói mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh cho một nguyện vọng, một ước mơ một sự trọn vẹn của nghĩa tình.

Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ
Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông.
Chẳng thà chịu tiếng cho luôn
Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.

Song nhìn chung tiếng trong ca dao-dân ca Bình Trị Thiên, dù mỗi vùng sắc thái có khác nhau vẫn là tiếng nói đằm thắm giàu ân nghĩa chứ không thiên về rắn rỏi, mạnh mẽ, quyết liệt hoặc quá mộc mạc, trần tục…Cách diễn đạt lại thường nhẹ nhàng, bóng bẩy, có sự trau chuốt, gia công tỷ mỉ trong việc dùng chữ, đặt câu (sắc thái này thể hiện rất rõ trong ca dao dân ca vùng Huế -Thừa Thiên)

Kháng chiến chống ngoại xâm là một nội dung khá quan trọng. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ca dao dân ca Quảng Trị vẫn không ngừng phát triển để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã vẽ nên những trang sử oai hùng của dân tộc, cho Quảng Trị mà các địa danh Triệu Sơn, Ba Lòng, Như Lệ là những nơi tiêu biểu cho phong trào kháng Pháp. Những nơi khác cũng đã từng in dấu chiến tranh tàn phá như dãy Trường Sơn, sông Thạch Hãn, Bích La Đông, An Hoà, Đại  Hào, Phương Ngạn:

Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.

Cần ghi nhận là dân ca cũng theo thời sự mà chuyển biến, phát triển.
Chiến đấu để thống nhất, để được sống tự do, độc lập trên quê hương là niềm tin mãnh liệt của người dân Quảng Trị thể hiện rõ từ thời kháng chiến chống Pháp đến thời chống Mỹ. Ca dao dân ca Quảng Trị đã phản ánh một cách sinh động ý chí và  tâm tình thiết tha ấy.

Như vậy, sự thêm bớt chữ trong các câu ca dao Quảng Trị là không có quy tắc mà hoàn toàn tuỳ theo cảm hứng của người hò, sao cho tròn ý nghĩa là được. Sự hợp vần trong các  dao thường thay đổi, hết gieo vần lưng lại gieo vần chân, như quy luật hợp vần của thể lục bát và song thất lục bát, nhưng một số ít câu ca dao của Quảng Trị lại có lối gieo ở vần chân.

Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao Quảng Trị cũng khá phong phú. Ta sẽ gặp ở đây những loại từ đối nghĩa, đối ý trong dân ca đối đáp:
– Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
– Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi
Trong lời hò đối đáp, lối ứng xử thật thông minh:
Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng
Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã:
Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
– Anh về thưa với hai họ rõ ràng

Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi

Quảng Trị là vùng đất thành lập sau khi nước ta đã định hình hàng nghìn năm trước. Văn học dân gian vùng này là sản phẩm của những con người có gốc từ Thanh Nghệ truyền vào. Qua cuộc sống chung với dân bản địa ở vùng đất mới, dần dần con người  ở đây mới tạo được một phong cách riêng. Sự giao lưu văn hoá thế tất phải xảy ra. Ca dao là thể loại để lại những dấu vết rõ rệt trong ngôn ngữ văn học

TỤC NGỮ – CÂU ĐỐ

Tục ngữ và câu đố là hai thể loại suy lý phổ biến ở Quảng Trị . Cũng như ở các nơi khác, tục ngữ Quảng Trị được phân làm hai tiểu loại: Các câu phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết và sản xuất. Các câu phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về đời sống xã hội.  Đây là phần quan trọng nhất là mọi người cần quan tâm khi viết về đề tài ca dao- tục ngữ

Nhìn chung, kinh nghiệm của nhân dân ở đau cũng tương tự như nhau. Ở Quảng Trị có những câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết như sau: Chớp ngã Cồn Tiên; Mưa liền một trộ; hoặc: Sấm Đầu mâu không cầu cũng đến.

Lại có những câu đề cập đến sản vật đặc biệt của từng địa phương. Chính qua những câu tục ngữ này, chúng ta lại càng hiểu sâu sắc hơn văn hoá vật chất của vùng đất Quảng Trị:

-Nem chợ Sãi, vải La Vang
-Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
-Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
– Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
-Cá bống Bích La, gà Trại Lộc…

Kinh nghiệm về đời sống xã hội có những câu thật xác đáng và thực tế:

-Chạy lóc xóc không bằng góc vườn
-Nhiều nghề cá trê húp nác(nước)

Người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:

– Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát
– Đừng chóng bạc như vôi
– Xách bầu phải xem quai
– Địu con phải xem vải buộc
– Làm cỏ phải xem cán nắm

Về hình thức nghệ thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần theo lối yêu vận chứ không theo lối cước vận.

Câu đố Quảng Trị có thể phân thành những tiểu loại:

-Về những bộ phận cơ thể của con người
-Về những hoạt động của con người
-Về các con vật
-Về các loại cây trái
-Về các sự vật hiện tượng khác.

Qua những câu đố ấy, ta thấy được sự tinh vi trong những nhận xét về sự vật, con vật sống cạnh người, như đố về con gà trống:

Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên
Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình.
Hoặc con chó :
Khen ai nho nhỏ
Mắt tỏ như gương
Tối trời như mực
Biết người thương ra chào

Có nhiều khi sự liên tưởng vô cùng sâu sắc. Đố về cau, trầu, vôi có câu:

Hai cây cao đã nên cao
Một người dưới rào xa đã nên xa
Ba người họp lại một nhà
Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên

Có thể nói sự thông minh dí dỏm, óc nhận xét tinh vi của người Quảng Trị đều được thể hiện trong câu đố:

Da non mà bọc lấy xương
Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương
Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp
Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa
( Cây đèn sáp)
Một mẹ sinh đặng ngàn con
Trai có gái có , tài khôn rõ ràng
Mặt trời đã xế vàng vàng
Con xa ngái mẹ lại càng thương thay
Cách nhau đã bốn năm ngày
Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng
(Phiên chợ Cam Lộ)

Một số câu đố khác theo lối “đố tục giảng thanh” cũng thường được nhân dân Quảng Trị vận dụng để sáng tác.

dai-tuong-niem-mai-quoc-ca-thach-han-quang-tri

TRUYỆN TRUYỀN THUYẾT – CỔ TÍCH – TRUYỆN TRẠNG

Truyền thuyết ở Quảng Trị phong phú, những truyền thuyết về tên đất, tên làng, và kể lại sự nghiệp của những người có công khai sinh ra làng xã là khá phổ biến trong dân gian. “Nguồn gốc Câu Nhi”, “ Nguồn gốc Như Lệ” là hai truyền thuyết tiêu biểu giải thích làng xã Quảng Trị.

Các truyền thuyết về đền- tháp- miếu- chùa  như “Sự tích tháp Dương Lệ và tháp Trung Đan”, “ Đề Tương Hầu”, “ Miếu Tương Nghè”…đã vẽ lại một giai đoạn lịch sử lâu đời lúc thần linh còn ngự trị khá sâu sắc trong tư tưởng của nhân dân.. Qua các truyền thuyết đó, ta thấy được lòng tôn trọng văn hoá, biết ơn những vị có công với đất nước, quê hương

Truyện cổ tích lại mang một nội dung khác. Đó là những chuyện phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người, đề cập đến những tình cảm riêng tư trong sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội. Hệ tư tưởng nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong các truyện cổ. Nhiều truyện nêu bật các đức tính chung thủy, hiền hậu, đảm đang, cần kiệm. Truyện” Vác mía tìm dâu”, “Tình mẹ con” có mục đích khuyến dụ thanh niên nam nữ giữ gìn và phát triển những đức tính ấy để bảo vệ tình cảm, đạo đức trong cuộc sống gia đình. Truyện” Vợ làm quan cho chồng” đề cao người vợ khôn ngoan cũng là truyện có khuynh hướng đạo lý… Có thể nói các truyện cổ tích dân tộc kinh tại  vùng đất Quảng trị dù phương thức diễn đạt khác nhau, có truyện mang tính thần kỳ, có truyện mang tính khôi hài… nhưng nhìn chung xu hướng trong các truyện cổ là đe cao đạo lý làm người.

So với truyện cổ dân tộc kinh thì truyện cổ miền núi Quảng Trị phong phú hơn. Một số truyện cổ tích có tính suy nguyên luận như “ Sự tích sao hôm sao mai” (taôi), “ Tình nghĩa gà vịt” (Vân kiều)…phản ánh sinh hoạt xã hội, có mục đích khuyến giáo đạo lý làm người, đề cao sự chung thuỷ, phê phán những hạng xảo trá, lừa đảo trong quan hệ gia đình, xã hội. Truyện cổ tích thần kỳ miền núi khá hấp dẫn ở những yếu tố người thần, vật thần. Truyện “Con voi thần” hấp dẫn ở nội dung độc đáo, thể hiện sự chất phác cùng sự dung dị trong nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc miền núi.

Tư tưởng bao trùm lên các truyện cổ là điều thiện thắng điều ác, tình yêu chung thuỷ luôn được đề cao, những kẻ thống trị tàn bạo luôn bị lên án, cuối cùng bị trừng phạt. Nghệ thuật xây dựng truyện được cấu trúc trên hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện, từ đó chủ đề truyện được bộc lộ.

Trong kho tàng truyện kể Quảng Trị, truyện cười cũng chiếm số lượng lớn và vô cùng phong phú. Đặc biệt vùng đất Như Lệ khô cằn lại tập hợp một khối lượng truyện cười đáng kể. Đáng chú ý hơn cả là Chuyện Trạng Vĩnh Hoàng. Nghệ thuật kể truyện Trạng Vĩnh Hoàng tuy cũng dùng biện pháp khoa trương, phóng đại, nhưng dựa trên cơ sở  hiện thực như chuyện “Trâu đen trâu bạc” là để phóng đại dưa hấu ở Vĩnh Hoàng, chuyện “Mắc cọp mà cày” là để phóng đại việc người Vĩnh Hoàng ngày trước đi cày rất sớm và vùng này cũng nổi tiếng có nhiều cọp như ở Thuỷ Ba. Về phương thức phóng đại, người Vĩnh Hoàng không dùng lối trực tiếp mà diễn tả bằng lối gián tiếp. Để chỉ quả dưa khổng lồ, họ không so sánh quả dưa đó với vật thể nào mà diễn đạt một cách thông minh hơn: dưa mà đạn bắn vào mắc kẹt không ra được, cả đàn quạ chui vào ruột khoét dưa ăn, rồi mang cả dưa lẫn quạ bay lên cao.

Truyện Trạng Vĩnh Hoàng đã nêu bật được bản sắc độc đáo của con người Việt Nam ở Vĩnh Hoàng. Tuy là truyện Trạng nhưng vẫn có một giá trị hiện thực. Đây không phải là những truyện bông lơn, nói láo một cách hời hợt dễ dãi mà xây  dựng từ những thành quả lao động và chiến đấu. Giá trị ấy cần phải được khẳng định khi xét đến mối tương quan của nó với các loại truyện khác như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn…

langtrang_1
Ngoài ra, một loại truyện khác mang tính chất vui tươi, hài hước, thú vị và nhẹ nhàng là các giai thoại dân gian. Phần lớn những giai thoại này xuất phát từ những cuộc hò đâm bắt, hò môi miếng. Có những giai thoại tập trung vào một nhân vật như thợ Thiềm. Thợ Thiềm được lưu truyền trong dân gian nhờ tài năng, sự thông minh nhanh nhẹn trong cuộc hò đối đáp, nhưng nhiều lúc, thợ Thiềm cũng phải chịu thua trước nữ nhi.

HÒ VÈ

Hò địch vận ở Như Lệ vốn là biến điệu của hò mái nhì nhưng vang xa như tiếng ngân vút cao mạnh mẽ phát ra từ con tim yêu nước nồng nàn. Tiếng hò Như Lệ là nét độc đáo trong  dân ca kháng chiến Quảng Trị, nó đã phát huy tác dụng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ, tiếng hò kháng chiến lại được dịp vang xa. Nhiều câu hò hai bên bờ sông Bến Hải nói lên niềm ước vọng đất nước thống nhất. Chính ở vùng này đã hình thành nên một bộ phận văn học dân gian mang những đặc điểm riêng của một vùng đất bị chia cắt.

Sông Hiền Lương bên bồi, bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Bao giờ giặc Mỹ hết phương
Bắc Nam sum họp con đường vô ra.

Vè là một thể loại kể chuyện bằng văn vần phổ biến ở Quảng Trị, phát triển mạnh vào thế kĩ XIX. Vè Quảng Trị cũng như các nơi khác, phần lớn là những bài có dung lượng vừa phải được sáng tác theo thể lục bát, hoặc tứ tự, song thất lục bát. Một số bài nổi bật với nội dung mang tính xã hội sâu sắc. Đó là loại vè thế sự. Vè “Mẹ Hẹ” là một sáng tác độc đáo. Hình thức sáng tác gần như lối thoại kịch với lời đối đáp của hai nhân vật: cô Hẹ và quan huyện. Nội dung bài vè kể lại câu chuyện cô Hẹ vào tuổi xuân tình phơi phới đã bị quan huyện lừa phỉnh. Sau khi để lại một bầu thai cho cô Hẹ, quan huyện ấy đã tàn nhẫn đuổi cô Hẹ ra khỏi nhà. Cô Hẹ nuốt hận trở về nhà mẹ. Sau khi sinh nở, thấy cô vẫn còn xuân sắc, quan huyện lại giở trò tán tỉnh. Cô đã vạch trần thói bạc tình, bạc nghĩa của tên quan này bằng một ngôn ngữ cay chua, mang sắc thái địa phương đậm đà mà không phải bài vè nào cũng thể hiện được.

Xoay quanh thể loại này có những giai thoại mà mỗi khi quây quần bên ấm chè xanh hoặc đôi phút giải lao nơi đồng áng thường được người dân truyền tụng. Chuyện ông Bộ ở làng Gia Độ và O Thơi ở làng Xuân Thành là một trong số đó. Ông Bộ là người nho nhã, có vốn nho học. Tuy đã có gia đình nhưng lại rất say mê hò hát. Còn O Thơi là một gái chưa chồng, tài sắc vào đám nhất vùng thời ấy. Một hôm, gặp O Thơi quang gánh di chợ qua cánh đồng giáp hai làng, ông Bộ nổi hứng cất câu hò:

“Buôn bán chi chi rày lời mai lỗ, vất quách thúng rỗ theo anh. Một mai công toại danh thành, ta ngồi chung kiệu hành đó đây”

Không hề chần chừ nghĩ ngợi lâu, O Thơi cất giọng hò đối lại ngay lập tức:

“Chữ thánh hiền dược mấy pho mấy bộ, dám huênh hoang xuất lộ vi hành? Một mai đỗ đạt thành danh, đã có O Tam thể nó đợi anh kết nguyền”

Ông Bộ đỏ mặt vì câu hò cay độc. Ai đời đường là một đấng trượng phu ra rứa lại cho rằng chỉ có con mèo tam thể mới lấy anh!

Vẫn cái máu mê gái lại mê hò, một hôm vợ ông Bộ chuyển bụng sắp sinh, nhà lại hết dầu, vợ ông bảo ông xuống chợ mua dầu. Vừa ra đến đầu ngõ gặp cô Thơi đang đang mò cá. Hai người đối đáp đến nổi quên cả mặt trời đã xuống núi. Bỗng ông Bộ cất lên một câu hò trêu chọc rằng:

“Cảm thương cho Em sớm thì lăn đồng cạn, chiều lại lặn đồng sâu. Con tôm con tép liệu được mấy đồng xu”.

O Thơi hò đáp lại:

“Chứ làm ra năm trự mười đồng, trước ngon cơm anh sau lành áo mẹ để tỏ tấm lòng nàng dâu”.

Cũng cần đề cập thêm một nội dung khác cũng khá phong phú của vè Quảng Trị, đó là vè kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài bao nhiêu năm trên đất Quảng Trị khô cằn là đề tài cho hàng trăm bài vè phản ánh những nỗi khổ cực của người dân trong cuộc chiến tranh xâm lược, nêu bật tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân ở một vùng đất có truyền thống đấu tranh.

Bao năm tháng qua, văn học dân gian Quảng Trị đã sống cùng nhịp sống của dân tộc bằng tiếng nói hồn hậu, trung thực của mình, ngân vang bằng giọng hò thiết tha, trìu mến thân thương cho đến ngày nay.

Nguồn Internet