Lưu trữ cho từ khóa: quang tri

Di tích Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn

Khu di tích lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là một di tích lưu niệm danh nhân của Đảng nằm bên bờ sông Thạch Hãn, thuộc địa phận làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong; cách quốc lộ 1A tại thị xã Quảng Trị khoảng 3km về phía Đông Bắc (đi theo tỉnh lộ 64). Di tích tọa lạc trong khu vực gần chợ Sãi, nơi đây một thời vốn là trung tâm buôn bán tấp nập, nghề tiểu thủ công nghiệp rất phát triển của vùng đồng bằng Triệu Phong. Chính tại ngôi nhà này, đã sinh ra, nuôi dưỡng và hình thành một nhân cách lớn lao của một lãnh tụ cách mạng Việt Nam: Đồng chí Lê Duẩn.

le-duan-04

Di tích Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn

 Đồng chí Lê Duẩn (tên khai sinh là Lê Văn Nhuận) sinh ngày 7/4/1907 tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình nông dân. Thân phụ là cụ Lê Hiệp – một nhà nho như­­ng ở nhà làm nghề mộc. Thân mẫu là bà Võ Thị Đạo ở nhà làm ruộng sinh sống.

Quê nội của đồng chí Lê Duẩn ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Đây là một làng có truyền thống hiếu học, có nhiều ng­­ười  đỗ đạt khoa bảng. Chỉ tính riêng tộc họ Lê Văn của đồng chí Lê Duẩn lúc bấy giờ đã có 5 vị đỗ đạt tiến sĩ và nhiều ngư­­ời đỗ Phó bảng, trong đó có bác ruột của đồng chí Lê Duẩn.

Bích La còn là đất sinh ra nhiều danh nhân có tinh thần yêu nư­­ớc, căm thù giặc, điển hình trong phong trào chống Pháp có cụ Chánh vệ uý Lê Văn Thống (Ông nội của đồng chí Lê Duẩn), cụ đề đốc Lê Văn Tặng (bác ruột của đồng chí Lê Duẩn) đã từng tích cực tham gia phong trào Cần V­­ương chống Pháp.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có bề dày lịch sử và truyền thống yêu nư­­ớc, đặc biệt đư­­ợc mang trong mình dòng máu của một dòng họ vốn có nhiều ng­ư­ời học rộng, tài cao đó là mạch nguồn hun đúc, tạo dựng nên một con ng­­ười – lãnh tụ xuất sắc của Đảng ta, ngư­ời con ­ưu­ tú của quê hương Quảng Trị – đồng chí Cố Tổng Bí thư­ Lê Duẩn.

Lúc còn nhỏ, cậu học trò Lê Văn Nhuận đã biểu hiện sự thông minh và sớm nảy sinh tư­­ tưởng yêu n­ư­ớc, thư­­ơng dân. Từ thời còn đi học cậu đã là ng­­ười chăm học, học giỏi và nổi tiếng về sự thông thái, nói tiếng Pháp thông thạo nên dân  trong vùng quen gọi với cái tên gần gũi là cậu Thông Nhuận. Niên khoá 1919-1920 Lê Văn Nhuận dự thi “Yếu l­ư­ợc” và đổ điểm cao nhất nên đ­ư­ợc lên tỉnh học. Đựơc 1 năm, do điều kiện gia đình quá khó khăn, Lê Văn Nhuận đã phải thôi học và về mở lớp dạy t­ư­ ở trư­­ờng làng mong phần nào phụ giúp gia đình vư­­ợt qua cảnh nghèo khó.

Sống trong cảnh n­­ước mất nhà tan, cuộc sống nhân dân chịu bao đọa đày, lao khổ của ách đô hộ thực dân, phong kiến, ng­­ười thanh niên ch­­ưa tròn 20 tuổi – Lê Văn Nhuận đã sớm ảnh hưởng tư­­ tư­­ởng tiến bộ lúc bấy giờ. Anh quyết định ra đi mang theo hoài bão lớn lao là phải làm sao để những ng­ư­ời dân quê lam lũ của anh thoát khỏi cảnh đói nghèo trầm luân, đ­ể dân tộc và đất nư­­ớc thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của thực dân Pháp xâm l­­ược.

Năm 1927, Lê Văn Nhuận thoát ly khỏi gia đình vào làm kế toán ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng. Năm 1928, Lê Văn Nhuận tham gia nhóm “ái Quốc”. Sau một thời gian hoạt động, Lê Văn Nhuận chủ trương mở rộng nhóm “ái Quốc” thành “ Hội ái hữu” thu hút đựơc khá đông đảo công nhân ở Sở  Hỏa xa Đà Nẵng tham gia. Cuối năm đó, đoạn đ­­ường sắt Vinh – Đông Hà đư­­ợc làm xong nối liền từ Hà Nội đến Đà Nẵng, Lê Văn Nhuận đ­­ược điều ra làm ở ga Hà Nội, lúc chia tay Nhuận đ­ược anh em trong hội “ái hữu” đặt cho tên mới là Lê Duẩn. Trong thời gian này, Lê Duẩn  đã bắt liên lạc với Tân Việt Cách mạng Đảng và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, nhanh chóng trở thành  lớp ngư­­ời đầu tiên đi theo lý t­­ưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê nin mà Nguyễn ái Quốc đã chọn. Tháng 3/1930, từ một thanh niên giàu lòng yêu n­­ước, say mê với lý tư­ởng cách mạng, Lê Duẩn đã trở thành đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Sau đó đ­ược điều về  Thành uỷ Hà Nội rồi Xứ uỷ Bắc kỳ, giữ c­ư­ơng vị Uỷ viên Tuyên huấn Xứ uỷ. Ngày 20/4/1931, cơ quan Xứ uỷ Bắc kỳ bị lộ, đồng chí Lê Duẩn bị thực dân Pháp bắt giam và bị kết án 20 năm tù với tội danh “âm mư­u xúi giục quần chúng nổi loạn” và lần lượt bị giam cầm ở các nhà lao Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo.

le-duan-01

Trong các nhà tù đế quốc, đồng chí Lê Duẩn cùng với các Đảng viên trung kiên đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ giam cầm hà khắc, bảo vệ đồng chí, đồng đội của mình, đồng thời tổ chức việc học tập chính trị, văn hoá, biến nhà tù để quốc thành trường học cách mạng.

Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân ở Pháp và cuộc đấu tranh của nhân dân ta diễn ra mạnh mẽ nên chính quyền thực dân ở Đông Dư­ơng buộc phải trả lại tự do cho khoảng 500 tù chính trị bị giam ở Côn Đảo trong đó có đồng chí Lê Duẩn.

Từ nhà tù trở về, đồng chí Lê Duẩn đã tham gia hoạt động xây dựng phong  trào ở các tỉnh miền Trung, thực hiện chủ trư­ơng của Đảng thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dư­ơng, đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít và chống chiến tranh. Đặc biệt, đồng chí Lê Duẩn đã cùng đồng chí Trần Công Khanh tổ chức thắng lợi cuộc tập hợp quần chúng nhân dân biểu tình “đón Gaudart” ở Quảng Trị để trao bản dân nguyện đòi dân sinh, dân chủ, đòi cơm áo, hoà bình, gây tiếng vang lớn khắp xứ Trung Kỳ.

Năm 1939, đồng chí Lê Duẩn đ­ược bổ sung vào Thư­ờng vụ Trung ­ương Đảng, cùng với các đồng chí Phan Đăng Lư­u, Nguyễn Văn Cừ chuẩn bị văn kiện và chủ trì Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ư­ơng, quyết định thành lập “Mặt trận phản đế Đông D­ương”. Sau hội nghị này, đồng chí Lê Duẩn đ­ược Trung ương Đảng phân công ở lại Sài Gòn để lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nam Bộ.

Ngày 18/1/1940, trụ sở cơ quan Trung ­ương Đảng ở Nam Kỳ bị lộ, đồng chí Lê Duẩn bị bắt giam ở khám lớn Sài Gòn. Cuối năm đó đồng chí lại bị đày ra Côn Đảo (lần2).

Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí Lê Duẩn đư­ợc Đảng và Chính phủ đón về đất liền tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nam Bộ trên cư­ơng vị Uỷ viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư­ Xứ uỷ. Cùng với nhiều Đảng viên cộng sản khác, đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo nhân dân miền Nam và lãnh đạo Cách mạng miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nư­ớc.

Sau năm 1954, đồng chí Lê Duẩn nhận đ­ược Chỉ thị mới của Ban chấp hành Trung ­ương Đảng là tiếp tục ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào Cách mạng trên c­ương vị Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư­ Xứ uỷ Nam Bộ. Từ thực tiễn đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân các tỉnh thành ở Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục suy nghĩ và hình thành b­ước đi cơ bản của sự nghiệp đấu tranh cách mạng đó là phải xây dựng miền Bắc thành hậu ph­ương lớn, từng b­ước đặt nền móng để hình thành con đ­ường vận chuyển xuyên biển từ Bắc vào Nam… Chính trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn bắt tay vào khởi thảo văn kiện quan trọng “Đề cư­ơng Cách mạng miền Nam” và hoàn thành vào tháng 6/1956. Đề c­ương vạch rõ những ph­ương h­ướng cơ bản đúng đắn nhằm thúc đẩy Cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên. Vào những năm tháng vô cùng khó khăn này đồng chí đã sống trong lòng nhân dân, đư­ợc quần chúng bảo vệ, che chở từ các vùng nông thôn hẻo lánh đến trung tâm các thành phố để củng cố cơ sở cách mạng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm l­ược và bè lũ ngụy quyền tay sai.

Năm 1957, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, đồng chí Lê Duẩn bí mật rời miền Nam ra Hà Nội, đánh dấu một chặng đ­ường mới trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Từ đây, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong BCH Trung ­ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn càng có đủ điều kiện để cống hiến năng lực của mình cho Đảng và cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

D­ưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục hoàn chỉnh bản “Đề cư­­ơng cách mạng miền Nam” và đư­ợc BCH Trung ­ư­ơng thống nhất thông qua tại Hội nghị Trung ư­ơng lần thứ 15 khoá II (tháng 1/1959), trở thành đư­ờng lối chiến lược của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở miền Nam.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đ­ược bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Bí th­ư thứ nhất và Bí thư­ Quân uỷ Trung ương. Suốt 15 năm trên c­ương vị này, trong hoàn cảnh đất n­ước phải trải qua những thử thách cực kỳ  nghiêm trọng, tình thình quốc tế diễn biến phức tạp, đồng chí Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị và Trung ương Đảng kiên định đư­ờng lối  độc lập tự chủ, tranh thủ sự viện trợ giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, sáng suốt lãnh đạo nhân dân và các lực lư­ợng vũ trang  cả n­ước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc đ­ưa đất n­ước bư­ớc vào con đư­ờng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ sau năm 1975 cho đến ngày qua đời, trải qua hai kỳ Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) và lần thứ V (1982) trên c­ương vị Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Bí thư­ Ban chấp hành Trung ­­ương Đảng cộng sản Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo việc xây dựng đư­ờng lối chung của Cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời định ra chiến lư­ợc kinh tế trong chặng đư­ờng đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Cố Tổng Bí th­ư Lê Duẩn là học trò xuất sắc kế tục trung thành sự nghiệp Cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là ngư­ời chiến sĩ Cộng  sản kiên c­ường, nhà lãnh đạo lỗi lạc và là một t­ư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam.

le-duan-03

 Mấy mư­ơi năm ra đi làm cách mạng, phấn đấu cho những mục tiêu lý t­ưởng cao cả, tình cảm quê h­ương, nơi chôn rau, cắt rốn luôn cháy bỏng  khôn nguôi trong tâm hồn và trái tim đồng chí Lê Duẩn. Như­ng do điều kiện đất nư­ớc còn áp bức, phân ly, quê h­ương bị kìm kẹp khủng bố nên mãi cho đến sau năm 1975 khi Tổ quốc đã hoàn toàn giải phóng, trên cư­ơng vị là ng­ười lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí trở về thăm lại quê nhà, nghiêng mình kính cẩn trư­ớc vong linh tổ tiên và h­ương hồn các liệt sĩ đã hy sinh vì nước vì dân. Chính tại ngôi nhà lư­u niệm này, nhiều lần đã diễn ra những cuộc gặp gỡ thân mật giữa đồng chí với Đảng bộ và nhân dân địa phư­ơng trong tình cảm chan hoà, ấm cúng.

Năm 1986, đồng chí Lê Duẩn qua đời, cùng với nỗi đau thư­ơng, mất mát chung của toàn Đảng, toàn Dân, lãnh đạo tỉnh Bình Trị Thiên và huyện Triệu Hải cùng với nhân dân địa phương đã tổ chức lễ tang đồng chí ngay trong ngôi nhà tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành – nơi đồng chí Lê Duẩn đã đ­ược sinh ra và lớn lên. Từ đó, ngôi nhà này trở thành nhà lư­u niệm cố Tổng Bí thư­ Lê Duẩn.

le-duan-02

 Nhà l­­ưu niệm cố Tổng Bí thư­­ Lê Duẩn nằm trên khuôn viên có diện tích 400m2.. Nguyên tr­­ước đây là nhà và v­ườn của cụ thân sinh Lê Hiệp. Nhà làm bằng gỗ, khá khang trang. Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, ngôi nhà bị đốt cháy nhiều lần, chỉ còn trơ lại nền và khu v­­ườn hoang vắng. Sau khi đất  n­­ước hoà bình thống nhất (1976), huyện Triệu Hải (cũ) cùng bà con quê hư­­ơng đã xây dựng nên một ngôi nhà để vừa làm nhà l­ưu niệm, thờ cúng gia tộc vừa làm nơi nghỉ ngơi cho đồng chí Lê Duẩn mỗi lần về thăm quê. Ngôi nhà đ­ược khởi công xây dựng vào tháng 2/1976 và hoàn thành vào cuối năm đó. Nhà lúc đầu lợp tranh, xung quanh che chắn bằng gỗ ván. Cuối năm 1977, mái tranh bị hỏng nặng do sự tác động của nắng m­ưa, gió bão nên UBND tỉnh Bình Trị Thiên đã cho lợp lại bằng ngói và tồn tại cho đến đầu năm1994. Nhà dài 9m, rộng 4,5m, kết cấu theo dạng nhà băng 3 gian, 2 chái. Bao quanh nhà là 4 hàng rào chè tàu đ­ược cắt tỉa cẩn  thận, phía sau khuôn viên trồng các loại cây cảnh và cây ăn  trái. Ngoài Nhà Lưu niệm còn có Nhà trưng bày, Nhà tưởng niệm và một số công trình phụ trợ khác đã tạo thành Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ngày 29/10/2010 Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch xếp hạng di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 3810/QĐ-BVHTTDL. Khu lưu niệm là nơi giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và là một trong những địa chỉ đỏ về hoạt động giáo dục truyền thống, sinh hoạt văn hóa cho các thế hệ không chỉ riêng đối với Quảng Trị mà còn đối với cả nước…./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Duy Hùng

[nguon]https://dulich.quangtri.gov.vn/[/nguon]

Thôn 15 năm không rượu bia, thuốc lá

Từ đám cưới cho đến kỵ giỗ, lễ Tết, người thôn Cu Pua (huyện Đăkrông, Quảng Trị) chỉ mời nhau ly nước trà.

thon-15-nam-khong-uong-ruou

 Nhờ bỏ rượu, tích cực lao động nên Hồ Ê Nót vừa mua thêm được 3 con bò và một con dê. Ảnh: Hoàng Táo.

Thôn Cu Pua uốn lượn bên dòng sông mang cùng tên với xã Đăkrông (thuộc huyện Đăkrông, Quảng Trị). Là bản của bà con dân tộc thiểu số Vân Kiều, từ 15 năm nay, Cu Pua nổi lên như điểm sáng giữa núi rừng miền Tây Quảng Trị bởi không dùng rượu bia, thuốc lá trong cuộc sống và tiệc tùng.

Rót ly trà mời khách, anh Hồ Ê Nót nhớ lại những câu chuyện buồn ở Cu Pua hơn 15 năm trước. Thời đó, đàn ông trong bản đều sử dụng rượu bia và thuốc lá. Thậm chí, nhiều người còn lâm vào cảnh nghiện rượu.

Lấy bản thân ra làm câu chuyện minh họa, Hồ Ê Nót kể không ít lần đánh vợ con, có lần phải nhập viện rồi chính Nót lại đi thăm nuôi. “Mình đi làm về mệt mà vợ nó không cho tiền mua rượu nên đánh”, anh Nót ngại ngùng kể lại.

Cả bản triền miên trong cơn say, kinh tế gia đình đi xuống, cuộc sống bất hòa. Nhiều người trong bản còn gặp bệnh đại tràng, dạ dày và phổi vì hút thuốc, uống rượu. Cho đến một ngày, thấy đứa con thơ khóc ngặt nghẽo vì thiếu ăn trên căn nhà sàn, anh Nót sực tỉnh và hạ quyết tâm cai rượu.

Từ đó, Nót bỏ rượu, bỏ thuốc lá, phát triển kinh tế. Vừa là trưởng thôn, vừa là cán bộ y tế thôn bản, thấy cái lợi của việc bỏ rượu và thuốc lá nên anh Nót đi vận động, tuyên truyền để cả bản học theo. “Lúc đầu, bà con phản đối dữ lắm vì là con nghiện rồi, nhất là người già”, Nót kể về những khó khăn ban đầu khi vận động người dân bỏ rượu vào những năm 2000.

Trong gia đình, đám cưới của mấy người em, Hồ Ê Nót không dọn rượu bia, chỉ mời tiệc cà phê, trà và nước ngọt. “Rất khó để thay đổi bà con nhưng cũng phải làm, từ từ rồi bà con thấy cái lợi là theo mình thôi”, Ê Nót nói.

Bỏ rượu, khoản tiền dư ra dùng để mua mì tôm, thức ăn cho con cái. Sức khỏe dành để lao động trên nương rẫy. Gia đình Ê Nót dần trở thành điển hình về kinh tế trong thôn.

Ngoài vận động, già làng thôn Cu Pua lập ra “quy ước”, phạt mỗi người trong thôn uống rượu, hút thuốc 10.000 đồng. “Ban đầu chỉ nhắc nhở, nhưng tái phạm thì thôn nhất quyết thu tiền. Số tiền này cuối năm dùng để mua quà biểu dương những gia đình làm tốt việc nói không với rượu bia, thuốc lá”, trưởng thôn Cu Pua hiện nay Hồ Văn Thoi thông tin.

bai-tho-tac-hai-ve-ruou

 Bài thơ về tác hại của rượu do Hồ Ê Nót sáng tác để có động lực bỏ rượu. Ảnh: Hoàng Táo

Dần dà, bà con thấy Nót nói được, làm được, cơm ăn ngày ba bữa, vợ chồng đầm ấm nên thuận theo lời của Nót. Ông Hồ Văn Chước ở cạnh nhà anh Nót cũng thấy được cái ích lợi của bỏ rượu mà làm theo. “Không uống rượu thì gia đình không cãi cọ, không cờ bạc. Thanh niên thay vì uống rượu thì lên nương rẫy giúp vợ con, từ đó mà kinh tế gia đình khá giả hơn”, ông Chước nói.

Đến năm 2008, cả thôn Cu Pua không còn ai uống rượu, hút thuốc nữa, ngay cả tiệc cưới, kỵ giỗ hay lễ Tết đều chỉ dùng trà, nước ngọt hay cà phê để mời khách. “Bây giờ ngay cả việc gửi rượu trong nhà dân thôn Cu Pua cũng không được đồng ý, dù thuê họ tiền triệu đi nữa”, chị Hoàng Vân Trinh, cán bộ văn hóa xã Đăkrông cho hay.

Chủ trương không rượu bia, thuốc lá không chỉ thực hiện trong ranh giới thôn Cu Pua mà người Cu Pua khi ra ngoài vẫn phải nghiêm chỉnh thực hiện. Chị Hồ Kê Nít vừa lập gia đình rất phấn khởi kể: “Chồng không uống rượu thì yêu thương vợ con hơn, có thời gian làm việc nhà, cải thiện cuộc sống rất nhiều. Những lúc cãi nhau thì dùng lời nói để làm hòa”.

Nhờ kiêng rượu bia, chí thú làm ăn mà nay anh Hồ Ê Nót cùng với một người em trai gầy dựng lên đàn dê 50 con và hơn 10 con bò. Cả thôn Cu Pua với 61 hộ, 278 nhân khẩu thì nay đều có đời sống ấm no, sung túc. “Thôn chúng tôi đang phấn đấu vào câu lạc bộ 100 triệu”, trưởng thôn Hồ Văn Thoi cười nói và lý giải đó là mục tiêu thu nhập của một gia đình trong một năm.

Cán bộ xã Hoàng Vân Trinh khẳng định nhờ không rượu bia, thuốc là mà đời sống kinh tế Cu Pua ngày một nâng lên, xóa bỏ được nhiều tập tục lạc hậu. “Chúng tôi mong muốn những thôn khác cũng học tập Cu Pua để xã hội cùng đi lên, và tương lai nhân rộng mô hình này”, chị Trinh nói.

[nguon]Nguồn:http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thon-15-nam-khong-ruou-bia-thuoc-la-3310064.html[/nguon]

Đèo Sa Mù – Hướng Hóa (Quảng Trị), một vẻ đẹp lung linh huyền ảo

Đèo Sa Mù dài 19,8 km nối hai xã Hướng Phùng và Hướng Việt thuộc huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị uốn lượn quanh co, mây phủ trắng xóa.

deo-sa-mu-01

Từ thị trấn Khe Sanh đi theo đường Hồ Chí Minh khoảng 35 km về hướng Quảng Bình sẽ đến chân đèo Sa Mù, đây là con đèo hiểm trở vào loại bậc nhất miền tây tỉnh Quảng Trị, cao gần 1.400m so với mặt nước biển giáp biên giới Việt Lào.

deo-sa-mu-02

Dù chỉ mới một giờ rưỡi trưa, nhưng sương mù đã giăng ngang trên những tán cây.

deo-sa-mu-03

Màu trắng dày đặc của sương mù bao phủ khung cảnh dù rằng mùa hè là thời điểm ít sương mù nhất.

deo-sa-mu-04

Mặc cho sương gió bão táp, cây vẫn vươn lên đứng một mình giữa sườn núi.

sa-mu-05

Sương mù giăng phủ che khuất một phần tầm mắt trên con đường quanh co.

sa-mu-06

Màu đỏ của đất, vàng xám của đường, xanh của cây và trắng xóa của sương mù.

sa-mu-07

Một đoạn đường có lối đi khá nhỏ, bao bọc xung quanh là hai hàng cây mọc cao.

sa-mu-08

Khung cảnh mờ ảo tạo cảm giác như lạc đến vùng đất huyền bí.

sa-mu-09

Con đường vắng vẻ, rất ít xe chạy qua. Thỉnh thoảng mới xuất hiện một chiếc xe máy như thế này.

sa-mu-10

Những cái cây trơ trọi lá vẫn đứng đó giữa làn sương trắng xóa.

sa-mu-11

Gần cuối đèo mới thấy trời ửng nắng khi nhìn qua xã Hướng Việt, một góc quang cảnh hùng vĩ của dãy Trường Sơn hiện ra trong tầm mắt.

sa-mu-12Toàn cảnh chân đèo thuộc huyện Hướng Việt, con đường vẫn cứ kéo dài xa tít tắp.

[nguon]Nguồn:http://dulich.vnexpress.net/photo/anh-video/ve-huyen-ao-cua-deo-sa-mu-3036944.html[/nguon]