Lưu trữ cho từ khóa: tran huu chu

Vĩnh Tú trên con đường xây dựng nông thôn mới

Nằm ở phía Bắc huyện Vĩnh Linh, Vĩnh Tú quanh năm được bao bọc bởi màu xanh của những rặng trâm bầu và rừng sản xuất. Trong tổng diện tích tự nhiên gần 3.500 ha ấy chỉ có chưa đầy 800 ha đất đỏ ba zan thuộc trung tâm địa giới hành chính của xã còn lại  bốn bề là cát. Đất đai rộng, dân số hơn 3.000 người nhưng bao đời nay Vĩnh Tú phải cam chịu cảnh nghèo khó do sự khắc nghiệt của thiên nhiên.

12047739_851170454978816_1068902949_nCơ sở khang trang của UBND xã Vĩnh Tú. Ảnh: Văn Thịnh.

Trong cơ chế hội nhập, ngoài cây lạc, một loại cây trồng truyền thống đã được sản xuất từ lâu đời trên vùng đất này thì nông dân Vĩnh Tú không có loại nông sản nào có diện tích lớn được xem là bền vững và có tính cạnh tranh với thị trường. 49 ha hồ tiêu, 45 ha cao su năng suất cũng thấp hơn các xã khác trong huyện. Trong số gần 2.700 ha, ngoài rừng tự nhiên và rừng sản xuất nông dân Vĩnh Tú chỉ biết trồng các loại cây ngắn ngày. Bởi vậy, các giống lạc, dưa, ngô, bầu bí, mướp đắng, sắn khoai của Vĩnh Tú trở thành hàng hóa nông sản thân quen với các chợ trong vùng. Gặp thời tiết thuận thì giá các loại rau quả này phải nói “rẻ như cho”. Đầu tháng 4 năm nay, giá mỗi kg mướp đắng loại ngon chỉ có 5-6 ngàn đồng. Mỗi gánh mướp về chợ thu được 30 đến 35 ngàn đồng. Chuyện làm giàu ở Vĩnh Tú quả thật không đơn giản.

Khó khăn là vậy, nhưng khi nói đến xây dựng nông thôn mới (NTM) ai cũng hồ hởi phấn khởi. Các cuộc họp thôn, xã để triển khai xây dựng NTM được nhân dân bàn bạc sôi nổi. Nhà nhà tự nguyện hiến đất, đốn cây, dở bỏ tường rào, dịch chuyển các công trình vệ sinh, chuồng trại để xây dựng NTM. Khí thế, tinh thần cách mạng của người dân xứ sở chuyện Trạng này trong công cuộc đổi mới quê hương chẳng khác gì so với thời bom đạn đì đoằng.

Ông Trần Hữu Chư, một người có uy tín trong làng Huỳnh Công Tây chậm rãi nói: “Mình nghèo cũng phải làm, cốt là ở chổ trên dưới đồng lòng để xây dựng NTM”. Không riêng gì ông Trần Hữu Chư mà làng trên, xóm dưới đến đâu cũng nghe bàn chuyện xây dựng NTM, mọi người đang tích cóp tiền của sẳn sàng đóng góp cho mở rộng đường bê tông, xây dựng lưới điện để “Thắp sáng đường quê”. Trong chương trình thắp sáng đường quê này Vĩnh Tú có 2 thôn đã đưa điện chiếu sáng vào tận ngõ từng gia đình.

Để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, cấp ủy Đảng, chính quyền xã Vĩnh Tú đã có nhiều quyết sách mới, sáng tạo, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế từ đất đai, lao động. Ông Trần Hữu Hùng, Bí thư đảng bộ xã Vĩnh Tú cho biết: “Trước khi triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM xuất phát điểm của Vĩnh Tú rất thấp, mới có 5/19 tiêu chí đạt chuẩn”. Cơ sở vật chất trường học, giao thông, thủy lợi, các công trình văn hóa phúc lợi thiếu đồng bộ, việc thiết kế xây dựng trước đây không đạt chuẩn so với kết cấu hạ tầng của mục tiêu quốc gia. Điều quan trọng nhất đem đến sự thành công trong quá trình thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM đó là hệ thống chính trị của xã vững mạnh, có tinh thần đoàn kết cao nên tạo được sự đồng thuận khi triển khai chương trình xây dựng NTM. Năm 2010, thu nhập bình quân đầu người của Vĩnh Tú chưa đầy triệu đồng, hộ nghèo và cận nghèo có 185/918 hộ, chiếm trên 20% theo tiêu chí mới, trong đó hộ nghèo trên 12,7%. Đây cũng là vấn đề mà cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể của Vĩnh Tú trăn trở đưa vào nhóm ưu tiên tìm giải pháp tháo gỡ.

Ông Trần Hữu Hùng cho biết thêm: “Chúng tôi đã gắn trách nhiệm cụ thể cho từng cấp ủy viên, các thành viên của Ban quản lý, Ban phát triển xây dựng NTM, cũng như các tổ chức đoàn thể trong xã để mọi người tự giác, tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Đây cũng là một trong những tiêu chí cứng để bình xét thi đua hàng năm của từng cá nhân”. Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng, chính quyền xã đã đưa ra nhiều giải pháp thiết thực nhằm khuyến khích động viên nông dân đầu tư phát triển kinh tế. Ưu tiên đầu tư các công trình dân sinh kinh tế như đập Cửa Khâu, công trình Máng Nác để lấy nước tưới cho hàng chục ha ruộng của 3 thôn Thủy Tú 1, Thủy Tú 2, Thủy Tú Phường và thôn Mỹ Duyệt, làm đường nội đồng Tứ Chính, hoàn thiện cơ sở vật các trường học, trạm y tế, giao thông nông thôn, nhà văn hóa… với tổng vốn lên đến hàng tỷ đồng. Vận động nông dân khai thác diện tích cát bạc màu để trồng cây lâm nghiệp; tăng cường công tác đào tạo nghề cho nông dân; phối hợp với Trung khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư mở các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi đồng thời tăng cường các biện pháp tiếp tục thực hiện đề án sản xuất nông nghiệp cho thu nhập 50 triệu đồng trở lên trên mỗi ha một năm.

Các tổ chức đoàn thể trong xã tín chấp qua các kênh để vay vốn cho hội viên có điều kiện phát triển kinh tế. Nhờ vậy, nông dân phấn khởi mở mang trồng trọt, chăn nuôi, phát triển ngành nghề, kinh doanh – dịch vụ. Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên vùng cát đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vùng cát vàng, nghèo dinh dưỡng lại hay khô hạn đã được luồn lách thời tiết để xen canh, luân canh, gối vụ các loại cây trồng như: Ngô, lạc, dưa hấu, sắn đạt thu nhập từ 50 đến 70 triệu/ha/năm. Nhiều mô hình trang trại, gia trại tổng hợp cho thu nhập hàng trăm triệu đồng/ha/năm. Như mô hình kinh tế tổng hợp của ông Lê Văn Sơn ở thôn Thủy Tú 2 cho thu nhập trên 200 triệu đồng mỗi năm. Hiện nay toàn xã có gần 60 ha đất sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ 50 đến 300 triệu đồng/ha/năm. Hàng trăm hộ đã mở mang các ngành nghề kinh doanh – dịch vụ thương mại, tạo nên sự phong phú, đa dạng của cuộc sống vùng nông thôn. Thu nhập bình quân đầu người năm 2013 đã đạt trên 19 triệu đồng, cao gấp 2 lần so với năm 2010.

Hộ nghèo hiện còn lại 7%. Trong tổng số hơn 2000 ha rừng của toàn xã đã có trên 1600 ha rừng sản xuất, độ che phủ của rừng đã đạt 59%, cao nhất huyện. Nhờ biết đầu tư khai thác diện tích đất cát bạc màu để trồng cây lâm nghiệp nên Vĩnh Tú không chỉ bảo vệ môi trường sinh thái mà nguồn lợi từ trồng rừng đem lại thu nhập lớn cho nông dân.

Người dân Vĩnh Tú vốn nổi tiếng thông minh, hài hước lại cần cù, chịu khó trong làm ăn, luôn đề cao tinh thần yêu nước nên việc triển khai xây dựng NTM gặp rất nhiều thuận lợi. Nhờ vậy, đến nay Vĩnh Tú đã hoàn thành 12/19 tiêu chí quan trọng như: tiêu chí về quy hoạch, hình thức tổ chức sản xuất,  lưới điện, trạm y tế, đời sống văn hóa, chợ nông thôn, nhà ở, điểm Bưu điện văn hóa, mức thu nhập, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên, hệ thống các tổ chức chính trị – xã hội, an ninh trật tự. Vĩnh Tú đang phấn đấu để hoàn thành 7 tiêu chí còn lại theo đúng lộ trình đề ra, đó là: Giao thông, tỷ lệ hộ nghèo, trường học, thủy lợi, cơ sở vật chất văn hóa, Giáo dục, môi trường.

12041819_851171271645401_1227668044_nCon đường rộng mở trước UBND xã.

Qua hơn 3 năm (2011-2013) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM Vĩnh Tú đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Nền kinh tế phát triển đa dạng, đem lại nguồn thu nhập cao; cảnh quan, môi trường nông thôn từng bước đổi mới, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc; cơ sở hạ tầng được kết cấu bền vững, từng bước hiện đại; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Từ một xã nghèo, điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, phong trào xây dựng NTM đã thúc đẩy Vĩnh Tú phát triển khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Tú đang nỗ lực phấn đấu để sớm về đích, trở thành xã NTM.

Phương Mai

Chấy đạn

Thấy một cụ ông đầu bạc ngồi trước hiên nhà cầm cái lược chải tóc. Mọi người cười hỏi vui:

– Bọ mà cũng chải tóc làm dáng hở bọ?

chay-dan02Ông cụ trả lời giọng tỉnh khô:

– Nậy như tui còn ve được ai nữa mà làm dáng cho mệt. Chẳng là lúc máy bay đang ném bom vô xóm, tui gánh nước tiếp tế cho đội du kích trực chiến bắn máy bay ngoài trận địa. Tui vội quá nên không đội nón. Một thằng ép – linh – năm chộ cái đầu tui cao láng quá, chắc hắn tưởng lầm là bộ đội đội mũ sắt. Đang bay hắn ngoảnh lại, lao xuống nện cho tui một băng đui-xết, choác tai! Về nhà thấy đầu ngá (ngứa) như có chấy, tui mạn mấy o du kích cái lược chải thử coi. Té ra không phải chấy mà năm sáu cái đầu đạn đui-xết dắt vô chân tóc mà tui không biết.

Bất ngờ ông cụ ngửa bàn tay ra, giữa lòng bàn tay có năm cái đầu đạn đui-xết.

– Mấy ông sờ mà coi, cái mô cái nấy còn nóng phỏng như than đó. Ông cụ nói.

Trần Hữu Chư

Người nông dân “đắm đuối” với chuyện Trạng Vĩnh Hoàng

Gần mười năm nay, có một lão nông ở vùng quê xưa kia nổi tiếng với những câu chuyện Trạng (nay là xã Vĩnh Tú – Vĩnh Linh – Quảng Trị) đã cất công sưu tầm, rồi vẽ minh họa những câu chuyện đó với mong muốn lưu giữ nét văn hóa độc đáo này. Ông là Trần Hữu Chư – năm nay 70 tuổi, người chuẩn bị in một cuốn sách về truyện Trạng Vĩnh Hoàng.

tran-huu-chu-trang-vinh-hoang-quang-triÔng Trần Hữu Chư – người lưu giữ và truyền thụ Chuyện Trạng cho lớp trẻ.

Trạng Vĩnh Hoàng là một hiện tượng trào phúng độc đáo của văn học dân gian Quảng Trị, xuất hiện cách đây khoảng ba bốn trăm năm. Đây là món ăn tinh thần, là loại chuyện kể “độc nhất vô nhị” không thể lẫn lộn với các chuyện cười ở vùng khác. Có người đã so sánh Trạng Vĩnh Hoàng có nhiều đặc trưng như làng cười Gabrôv (Bulgaria).

Trạng Vĩnh Hoàng bắt nguồn từ những sự việc thật, được người kể biến hóa bằng cách cường điệu, hư cấu một cách có lý, mang tính hài hước làm cho người nghe tưởng tượng, ngạc nhiên mà cười để quên đi những khó khăn, gian khổ mà người dân phải chịu đựng. Như truyện “Cải cọp mà cày” nói về anh nông dân buổi sáng sớm dắt bò đi cày, nhưng đến sáng mới ngã ngửa là mình đang cày bằng con cọp; truyện “Bắt bọp, bắt bọp” ca ngợi dưa hấu của người Vĩnh Hoàng to đến mức cả đàn quạ chui vào ruột khoét dưa ăn mà “giết đến mỏi tay không hết” đàn quạ; hay sự lạc quan của người Vĩnh Hoàng trong chiến tranh là một ông lão bị lính Mỹ bắn đạn vào đầy đầu, đến khi thấy ngứa ngỡ là chấy, chải xuống thì toàn là đầu đạn (truyện “Chấy đạn”)…

Trong chiến tranh, Vĩnh Linh là vùng tuyến đầu ác liệt nhất, đã phải chịu sức hủy diệt tới 7 tấn bom và 70 quả đạn trên một cây số vuông. Nhưng người Vĩnh Hoàng vẫn lạc quan và họ vẫn nói Trạng và kể chuyện Trạng trong sinh hoạt hàng ngày, trong các hội nghị của huyện, trong chiến hào, trên mâm pháo, dưới địa đạo. Trải qua thời gian, Trạng Vĩnh Hoàng đã không còn giữ được “thương hiệu” sau mấy trăm năm tồn tại, nhất là những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, số người kể chuyện Trạng chỉ đếm đầu ngón tay. Nhiều câu chuyện Trạng bị tam sao thất bản và cách kể chuyện Trạng cũng dần dần mất đi.

than-dong-lang-trangCác truyền nhân của ông Chư.

“Đắm đuối” với Trạng Vĩnh Hoàng
Sinh ra và lớn lên ở ngay làng Huỳnh Công Tây (Vĩnh Tú – Vĩnh Linh – Quảng Trị) – nơi được xem là cái nôi của Trạng Vĩnh Hoàng, vì thế mà những câu chuyện Trạng đã gắn chặt với cuộc đời của ông Trần Hữu Chư ngay từ bé. Ông Chư cho biết: Mỗi lần đi hội họp ở đâu, rỗi rãi, biết tui là người Vĩnh Hoàng, anh em ở các xã, huyện khác đều bắt tui kể chuyện Trạng cho bằng được.

Ông Chư kể: Tui có một người bác họ tên là Trần Hữu Khuê, vốn là một giáo viên thời Pháp thuộc, ông cùng gia đình tản cư vào Nam hoạt động cách mạng. Thời Mỹ- ngụy, ông Khuê đã bị kết án 20 năm tù khổ sai và 10 năm biệt xứ đày ra Côn Đảo. Sau ngày giải phóng, ông trở về sống tại Tp.HCM, hai bác cháu vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Hơn 10 năm trước, tui có nhận được một bức thư của bác kèm theo lời gợi ý là phải ghi lại những câu chuyện dân gian của quê hương. Đọc xong thư, tui suy nghĩ nhiều lắm vì bác mình ở xa quê nhà bao nhiêu năm rồi, sức đã yếu vậy mà vẫn nhớ về cội nguồn, nhớ tới quê hương. Từ nỗi nhớ đau đáu của người bác họ, tui nghĩ mình phải khôi phục, sưu tầm những câu chuyện Trạng bằng được, nếu không con cháu mai sau sẽ không còn biết Trạng Vĩnh Hoàng là thế nào. Lúc này, ông Chư đã đến tuổi về hưu, công việc cũng thư thả, ông có nhiều thời gian chuyên tâm hơn cho việc sưu tầm.

nguon-goc-trang-vinh-hoangÔng Chư cho biết: Quá trình tìm tòi, sưu tầm gian nan lắm. Do tìm hiểu sưu tầm muộn màng nên những “cây” kể chuyện Trạng lần lượt qua đời, người còn thì tuổi đã cao, sức yếu như cụ Nguyễn Sở, Võ Nông, các cụ nhớ câu được câu mất. Nhiều câu chuyện hiện nay có dấu hiệu tam sao thất bản như “Bọ mạ mi mô?”. Hành trình sưu tầm, biên soạn của tui gặp khó khăn nhất chính là ngôn ngữ của Trạng. Do yếu tố lịch sử, nhiều ngữ âm, từ cổ xưa giờ rất ít sử dụng trong đời sống hiện nay. Trong lúc đó, đặc điểm giọng nói của người Vĩnh Hoàng nặng, mất thanh ngữ, phát âm rất đặc biệt ở thanh hỏi(?), ngữ điệu thay đổi nhanh ở đầu, kéo dài ở cuối, lên cao xuống thấp? tạo cho giọng kể sự ngộ nghĩnh và lôi cuốn người nghe.

Một đặc điểm nữa của Trạng Vĩnh Hoàng là lớp từ cổ, từ địa phương pha từ đệm nghe rất hài như: hấy, há, đực bọ, lạo, ôốc doộc, ôông ngai. Như trong các truyện “Bắt bọp”, “Cây ớt, “Ăn khoai lang nghẹn cổ”, “Cây khoai bò hai tỉnh”, “Đi câu cá đô”… đã tạo nên đặc thù riêng cho Trạng Vĩnh Hoàng. Nhưng đến nay, do chịu ảnh hưởng chung của việc giao thoa văn hóa giữa các vùng, miền nên những từ này ít được sử dụng nên Trạng hôm nay không truyền đạt được trọn vẹn nội dung.

Để sưu tầm được những câu chuyện cổ nhất, tui thường đến nhà các cụ cao niên trong làng. Mỗi lần như vậy, tôi vừa nghe vừa ghi để đưa những câu chuyện Trạng về đúng nguyên bản của nó. Sau gần 10 năm chịu khó tìm tòi, sưu tầm, đến nay tui đã sưu tầm được hơn 30 câu chuyện Trạng. Sắp tới, tui dự định sẽ xuất bản một cuốn sách Trạng Vĩnh Hoàng mà tui cùng một số anh em sưu tầm, biên soạn được.

Họa sĩ làng
Từ ngày đi sưu tầm Trạng Vĩnh Hoàng, mọi người trong làng lại thấy ông Chư ngồi cặm cụi bên giá vẽ. Lúc đầu ông vẽ trên những tờ giấy học trò, sau thấy bà con hàng xóm tấm tắc khen, ông lại vẽ lên tường của nhà văn hóa xã. Lúc vẽ bức tranh này, ông Chư dù đã 70 tuổi nhưng cả tuần vẫn leo lên ban công Nhà văn hóa xã để ngồi vẽ. Rồi ông vẽ ra mặt sau của những tờ lịch. Tranh của ông được bà con khen ngợi nhiều, ông liền mang ra trưng bày ở Nhà văn hóa của thôn.

huu-chuSau nhiều năm cần mẫn bên chiếc giá vẽ tự tạo, đến nay, ông Chư đã mô phỏng lại được tất cả những câu chuyện mà ông đã bỏ công sưu tầm, biên soạn trong bấy lâu nay bằng hình ảnh. Dự định của ông là sẽ cho in những bức họa này kèm với những tác phẩm ông đã bỏ công sưu tầm.

Để biến những bức vẽ và những câu chuyện ông sưu tầm thành cuốn sách quả là một chặng đường dài. Bởi hiện nay, một lão nông như ông lấy đâu ra một số tiền hàng chục triệu đồng để in. Tất cả còn chờ vào sự giúp đỡ của các cấp chính quyền nên chưa biết lúc nào mới có sách. Tiếng thở dài não nề của lão nông đã làm cho chúng tôi không khỏi chạnh lòng trong suốt chặng đường về phố thị.

Theo CAND