Lưu trữ cho từ khóa: vinh tu

Những mùa dưa của tuổi nhỏ…

Mùa hè, mỗi lúc trời chập tối ông nội lại cắp một bi đông nước cùng cây rựa đến trạng canh dưa.

Hồi đó, ông khai phá một vùng rộng lớn ở rú trăm bù, những quả dưa ông trồng đều to hơn dưa của những người trong làng vì ông chăm dưa rất kĩ. Đường đến trạng dưa phải qua một con mương cát nhỏ, nước chỉ đến mắt cá chân.

mua-dua-tuoi-nho

Mùa dưa, mệ nội nấu cơm tối sớm hơn mọi khi để ông kịp ăn mà đi canh dưa. Con bé cháu là mình cũng lẽo đẽo lại ngồi cạnh ông, ngoan ngoãn, hí húi múc múc chan chan cho mau hết chén cơm rồi thỏ thẻ xin ông cho đi theo canh dưa.

Trong suy nghĩ của con bé, đi canh dưa nỏ khác chi đi trải nghiệm một thế giới cổ tích. Trong thế giới đó có hai ông cháu của cô bé không quàng khăn đỏ sẽ trải qua như này: tụi trộm dưa như lũ yêu tinh, phù thủy, còn ông nội là ông Tiên, chỉ cần ông Tiện vung gậy, à không, vung rựa lên là tụi trộm dưa chạy mất dép.

Hi hi…đi canh dưa cùng ông nhưng suốt quãng đường đến trạng dưa, ông nội toàn phải cõng con bé. Nó vẫn còn nhớ như in mùi mồ hôi của ông nội. Lúc ông cõng nó, nó áp mà vào lưng ông thiệt là ngoan hiền, cí đầu lắc lư theo nhịp bước của ông nội. Đi đến mương nước, nó lém lỉnh xin ông tuột xuống để bước qua…cho mát. Thực ra là nó muốn nghịch nước chơ hay ho chi mô.

Đến trạng dưa, ông nội đưa nó ngồi lên cái chõng con trong lán rồi đi quanh trạng dưa nghe ngóng một hồi. Ngồi trang lán con bé hơi sợ, nó nhìn ra ngoài trời tối thui. Con bé nằm yên trên chõng tre nín thở chờ ông nội vô. Nó tưởng tượng ộng nội đang chiến đấu với bọn trộm dưa ngoài kia, để những quả dưa ngon lành không bị hái đi, không bị đạp bể… Nội vung rựa bên phải, vung rựa bên trái khiến mấy đứa trộm xanh mắt, có đứa chạy vấp phải mấy quả dưa bổ chỏng qoèo bị ông đá cho vô mông…hí hí…Nhưng nội đi ra canh dưa lâu quá, nó im re không dám kêu vì còn…sợ ma nữa, mồ hôi nó toát ra. Phải thôi, nó đang trùm nguyên cái chăn chiên của ông nội lên kín đầu mà.

Lát rồi con bé ngủ thiếp đi một chặp…trong lúc mơ màng nó chợt nghe tiếng ông nội “Mả cha hắn khi có miềng thì nỏ chộ hắn mô, khi miềng trấp lưng về thì hắn vô ăn trộm”. Rứa là con bé tỉnh ngay, nghe thơm nức mùi dưa nội mới cắt ra. Mùi dưa thanh thanh, mát lành, ngọt thơm thiệt là hấp dẫn. Nó tung chăn ngồi dậy nhìn nội đang cười hiền hòa rung rung chòm râu bạc” Dậy ăn dưa cháu, dưa ngọt hung!”

Rồi hai ông cháu ăn dưa và đi ngủ. Nó ngủ một mạch đến sáng trong khi nội lâu lâu lại thức dậy để canh dưa. Có lẽ lúc trở dậy, nhìn đứa cháu gái ngủ say, nội đã mỉm cười âu yếm lắm…
Sáng sớm hôm sau, nội dắt nó đi quanh trạng dưa một lần nữa rồi cõng nó trên lưng trở về nhà. Mỗi mùa dưa, nó lại được vài lần theo nội đi canh dưa như rứa…Mỗi mùa dưa nó lại háo hức, mong chờ…

mua-dua-tuoi-nho-2

Mùa hạ năm ngoái, nội đi xa rồi… Trong kí ức con bé nức nở những mùa dưa có nội, những lần về thăm nhà có nội, những buồn lo có nội vỗ về, khuyên nhủ yêu thương…

Nội ơi! Trạng dưa của nội ngày trước họ đã trồng tràm phủ xanh hết rồi, nội đừng qua đó nữa nội nghe!!! Nội nghe!!!

Mẫn Và Tôi

Ký ức về mái trường xưa

Tôi về thăm lại trường xưa
Tóc đà sợi nắng, sợi mưa trên đầu…

Năm học 1961-1962 sau khi học xong lớp vỡ lòng, tôi vào lớp một Trường Phổ thông cấp I Vĩnh Tú (Vĩnh Linh, Quảng Trị). Thầy giáo chủ nhiệm chúng tôi là thầy Huệ, một người thầy hiền từ, nghiêm khắc và hết lòng yêu thương học sinh.

ky-niemCán bộ, giáo viên Trường Tiểu học Vĩnh Tú qua các thời kỳ

Trường chúng tôi có 8 lớp học, bốn lớp A học buổi sáng, bốn lớp B học buổi chiều. Lúc đó, trường chỉ là một ngôi nhà mái tranh, phên đất với bốn phòng học nên các thầy cô giáo phải làm việc, hội họp ở nhà ông Tả. Các thầy giáo, cô giáo đều trẻ, vui… Ngoài các tiết học, các thầy cô còn dạy hát, tổ chức vui chơi cho chúng tôi. Những bài học thuộc lòng như “Học đi em, học đi mà nhớ mãi”, “Chú Hải quân”, “Quê em ở vùng biển”… hay những bài hát “Mời Bác về thăm quê cháu”, “Một hố chông diệt một tên lính Mỹ”, “Em đi thăm miền Nam”… Những bài hát, bài học thuộc lòng luôn in đậm trong tâm trí mỗi bạn nhỏ chúng tôi. Ngoài buổi học, nhà trường còn tổ chức lao động. Công việc chủ yếu là vệ sinh trường lớp. Tôi cùng các bạn dùng ống tre lấy nước ở bàu Thủy Ứ đổ vào bể cạn để rửa tay và phòng để chữa cháy hay phân công bảo vệ, chăm sóc hàng cây xà cừ phía trước trường với khẩu hiệu “Ông trồng cháu chăm”. Trường chúng tôi có vườn thực hành được chia thành luống nhỏ để trồng ngô, cải, cà chua, đu đủ… Lớp 1A của tôi được phân công chăm bón luống cà chua, đến mùa cho rất nhiều quả to, đỏ mọng. Thầy giáo chủ nhiệm chúng tôi nói vui: “Nếu đem ra chợ bán thì 1 quả 5 xu, còn bán cho học sinh trong lớp thì rẻ thôi, 2 quả 1 hào”…

Giờ chào cờ đầu tuần là hoạt động mà chúng tôi mong đợi nhất. Cả ngày chủ nhật nghỉ học, chúng tôi cứ mong ngày thứ hai đến trường thật sớm để được chào cờ và hát Quốc ca. Đặc biệt, chúng tôi được nghe thầy Hiệu trưởng Hoàng Kim Châu kể chuyện về Bác Hồ, về miền Nam đang đấu tranh chống Mỹ – Diệm, phản đối bọn chúng dùng máy chém, rào ấp chiến lược, thảm sát ở nhà tù Phú Lợi… Thầy hiệu trưởng còn phát động những phong trào như “Sạch như bệnh viện, đẹp như công viên”, “Lao động tốt như bác nông dân, tập hợp nhanh như anh bộ đội”, phong trào “Hai tốt”, “Tiếng trống Bắc Lý”…

Năm học 1963-1964, tôi học lớp 3 và được kết nạp vào Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Vào dịp này chúng tôi được nhà trường phát động, hưởng ứng phong trào “Làm ngàn việc tốt” từ sáng kiến của thầy giáo Nguyễn Đức Thìn, Tổng phụ trách đội Trường cấp II Liên Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh. Tôi và các bạn tích cực hưởng ứng với những việc làm cụ thể như đi học về không chặn đường đánh bạn, không rảy mực vào áo bạn, ra đường luôn đi về bên phải, gặp người lớn phải đứng lại chào, giúp ba mẹ làm việc nhà, đi chăn trâu bò không để trâu bò ăn lúa, hoa màu của hợp tác xã… Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, chúng tôi hăng hái hưởng ứng phong trào như thế…

Năm học 1964-1965 đế quốc Mỹ ném bom xuống thị trấn Hồ Xá, giết hại thầy giáo và một số học sinh ở trường cấp III vào chiều ngày 8/2/1965. Chúng tôi không học ở trường nữa mà chuyển về học ở nhà đội của Hợp tác xã thôn Tây. Bàn viết sử dụng ghế băng, chỗ ngồi dùng lá chua mót trải xuống. Một thời gian sau chúng tôi chuyển sang học ban đêm vì máy bay Mỹ tập trung ném bom vào ban ngày. Nói là ban đêm nhưng từ 11, 12 giờ trưa chúng tôi đã lục tục đến trường. Chỗ tập kết là rú Dầu Sở, trò chơi mà chúng tôi thích nhất là “mèo đuổi chuột”. Chúng tôi đuổi bắt nhau, trên những cành cây dầu sở sum suê đan chéo vào nhau… Để chuẩn bị cho buổi học ban đêm, ngoài sách vở, dụng cụ học tập còn có một cây đèn dầu hỏa có cấu tạo đặc biệt, lúc không sử dụng thì ấn tim đèn vào trong chai (phía dưới có cái lò xo) rồi đậy kín nắp cho dầu khỏi đổ ra. Khoảng 9,10 giờ đêm buổi học kết thúc, chúng tôi ra về bụng đói meo nhưng vẫn hát nghêu ngao tận các ngõ nhỏ.

Năm học 1965-1966, tôi lên học cấp 2. Thế rồi chiến tranh ngày càng ác liệt, từ tháng 8, 9 năm 1967 học sinh trường cấp I, cấp II chúng tôi phải sơ tán ra các tỉnh phía Bắc theo kế hoạch K8, K10. Các thầy giáo, cô giáo, anh chị phụ trách cùng chúng tôi vượt qua đạn bom ác liệt ra miền Bắc tiếp tục học tập. Ở nơi sơ tán, chúng tôi được ông bà, bố mẹ, anh chị nuôi, các thầy giáo, cô giáo chăm sóc, nuôi dạy chu đáo làm dịu đi những mất mát, hy sinh và nỗi nhớ nhà. Nhưng từ sâu thẳm, chúng tôi luôn khao khát được sống bình yên, được học tập, vui chơi dưới mái trường quê hương không còn bom đạn quân thù.

Từ tháng 5 đến tháng 7/1973 từ các nơi sơ tán đồng bào K10, học sinh K8 trở về quê hương sau 6 năm xa cách. Ở quê nhà cán bộ và nhân dân khẩn trương dựng các phòng học bằng tranh tre để kịp cho các cháu vào năm học mới. Ngày Chủ nhật 23/9/1973 các trường ở khu vực Vĩnh Linh tổ chức lễ khai giảng năm học mới. Trường Phổ thông cấp I Vĩnh Tú bước vào năm học 1973- 1974 ngay trên mãnh đất trường cũ…

Vậy mà đã sáu mươi năm, ngôi trường tuổi thơ tôi đã tròn 60 tuổi. Chúng tôi, những cựu học sinh của Trường Phổ thông cấp I Vĩnh Tú năm nào giờ cũng đã thành ông, thành bà, có người thành đạt, cũng có người trở về nơi đồng đất quê mình và cũng có những người bạn của chúng tôi nằm lại nơi chiến trường xa. Nhưng dù ở đâu thì hình ảnh mái trường xưa, ký ức về tình thầy trò, tình thân bè bạn thuở nào vẫn còn mãi trong chúng tôi. Xin phép mượn lời thơ của một học sinh cũ để kết thúc bài viết này: Dù cho tung cánh muôn phương/ Ơn thầy, tình bạn, nghĩa trường không quên.

NGUYỄN ÂN CẦN (Nguyên Hiệu trưởng Trường PTCS Vĩnh Tú 1987-1991)

[nguon]Nguồn:http://tinquangtri.com/ky-uc-ve-mai-truong-xua.html[/nguon]

Làng 400 năm nói trạng, bắt “hổ đi cày thay trâu”

Ở miền quê lụt bão liên miên, trưa hè nắng rát, những câu chuyện trạng Vĩnh Hoàng (Quảng Trị) mang đến tiếng cười khỏe khoắn, giúp nông dân thêm yêu cuộc sống. Theo các bô lão, làng Vĩnh Hoàng được thành lập khoảng thế kỷ 17-18, nay là thôn Huỳnh Công Tây, xã Vĩnh Tú (Vĩnh Linh, Quảng Trị). Từ ngày lập làng, những câu chuyện trạng bắt đầu được sáng tác và lưu truyền, tiếp nối cho đến nay khoảng 400 năm. Vĩnh Hoàng xưa có nghề trồng dưa đỏ nổi tiếng khắp vùng. Để nói về kích cỡ của quả dưa, người dân sáng tạo ra câu chuyện “bắt – bọp mỏi tay”. Chuyện kể rằng, một hôm nông dân ra đồng thăm ruộng dưa thì thấy yên ắng. Bỗng thấy quả dưa có lỗ đỏ, lại gần có nhúm lông chim thò ra. Người nông dân bịt lỗ lại, chậm rãi thò tay vào bắt ra không biết bao nhiêu là quạ, bọp (bóp) chết chim đến mỏi tay. Chỉ thoáng thả tay ra là quả dưa như như muốn bay lên trời. “Quả dưa đỏ to đến độ chứa được cả bầy quạ”, ông Trần Đức Trí, 77 tuổi, kể chuyện giọng luyến láy, đôi mắt bí hiểm gợi trí tò mò cho người nghe.

lang-noi-trang-vinh-hoangÔng Trí kể lại câu chuyện phóng đại về độ lớn của quả dưa làng Vĩnh Hoàng. Ảnh: Hoàng Táo

Ông Trí là số ít người có năng khiếu kể chuyện còn sót lại của làng trạng Vĩnh Hoàng. Khoảng 10 năm trước, khi đôi tai chưa nghễnh ngãng, ông chuyên đi kể chuyện trạng Vĩnh Hoàng khắp tỉnh Quảng Trị. “Cuộc sống vất vả, những câu chuyện trạng tiếu lâm giúp người dân quên đi cực nhọc, giải tỏa tâm lý để hăng hái lao động”, ông Trí nói.

Lão nông này kể, một bữa ông dắt bò ra đồng sớm, cày nhanh cho thoát cái nắng oi bức mùa hè. Chỉ trong chốc lát đã cày xong một luống khiến ông ngỡ ngàng. Đến khi trời tảng sáng, nhìn lại thì phát hiện một con hổ đang kéo cày. “Sẵn cây rựa trong tay, tui chặt phát đứt cày, hắn chạy mất. Thế là mất buổi cày”, ông Trí kể chuyện mất buổi cày.

“Cọp hung dữ ai cũng sợ, riêng quê tôi thì nó đi cày thay trâu”, ông Trí hóm hỉnh nói.

Cho đến thời kháng chiến và cuộc sống hiện đại sau này, chuyện trạng được sáng tạo thêm, biến thiên theo năm tháng. Ông Trần Hữu Chư kể câu chuyện trạng hơi hướng hiện đại: “Thức giấc trong hầm thì sờ thấy có thêm đứa con mô ra nóng hổi. Tỉnh giấc mới biết là quả bom giặc ném rơi trúng hầm. Trong kháng chiến gian khổ, người dân không còn sợ bom đạn nữa, sống chung với đạn bom mà sáng tác ra chuyện trạng”.

Kể chuyện trạng ở địa phương hiện nay chỉ còn trên mười người, trong đó có ông Chư. Nhằm phổ biến đến thế hệ sau, ông thường xuyên đi kể chuyện trạng ở các trường học trong xã, huyện. Lão nông 76 tuổi này đã dành gần 10 năm sưu tầm được khoảng 70 chuyện của cha ông. Những lúc rảnh rỗi, ông lại chuyển thể câu chuyện trạng thành những bức tranh để thêm phần sinh động.

lang-noi-trang-vinh-hoang-2Ông Trần Hữu Chư (bên trái) 10 năm sưu tầm chuyện trạng để lưu giữ văn hóa cha ông. Ảnh: Hoàng Táo

Những năm gần đây, trường cấp 1, 2 xã Vĩnh Hoàng thường đưa những câu chuyện trạng vào các tiết học ngoại khóa, những buổi văn nghệ. Nhờ đó, 3 em nhỏ của làng Vĩnh Hoàng được bồi đắp, nay có năng khiếu kể chuyện không kém ông cha.

Theo ông Chư, vùng quê Vĩnh Hoàng không được thiên nhiên ưu đãi, lụt bão liên miên, trưa hè nắng rát. Những câu chuyện trạng tiếu lâm Vĩnh Hoàng mang đến tiếng cười khỏe khoắn, hồn nhiên của người lao động.

“Những câu chuyện trạng đều có ít nhiều yếu tố thực tế cuộc sống, người dân nói phóng đại lên để mua vui. Người kể hư cấu, cường điệu một cách hợp lý để mang lại sự bất ngờ, khiến người nghe tưởng tượng mà cười. Cái cười ở đây ngạo nghễ, nêu bật điểm mạnh của mình để thắng mọi gian nguy từ thiên nhiên đến con người”, ông Chư nói về sự khác biệt của chuyện trạng Vĩnh Hoàng.

Khẳng định chuyện trạng Vĩnh Hoàng là nét đẹp văn hóa cần bảo tồn và phát triển. Ông Hoàng Kim Khanh, Phó chánh văn phòng huyện Vĩnh Linh cho hay, hàng năm huyện đều tổ chức ngày hội văn hoá, trong đó trạng Vĩnh Hoàng luôn được chú trọng. “Những năm gần đây, huyện đã quan tâm bồi dưỡng, phát triển trạng Vĩnh Hoàng trong giới trẻ, những câu chuyện mới gắn với cuộc sống hiện đại”, ông Khanh thông tin.

Hoàng Táo