Chuyên mục lưu trữ: Quảng Trị

Cập nhật tin tức mới nhất, nhanh nhất và đầy đủ nhất về Quảng Trị, Tin tức Quảng Trị được cập nhật hàng giờ và liên tục hàng ngày.

Như một tình yêu lớn

Có một đôi bạn cùng học đại học chuyên ngành Giáo dục đặc biệt, cùng khởi nghiệp bằng việc dạy trẻ tự kỷ (TK) và cùng xác định đó là nghề sẽ theo suốt cuộc đời. Với cặp đôi này, vất vả không nhân đôi, mà ngược lại, niềm hạnh phúc được cộng hưởng khi cả hai có thể đi chung trên con đường giúp trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng.

thay_phi-quang-tri

Thầy Phi và cô Hà (ảnh trái, ngồi giữa) trong giờ vận động ngoài trời với trẻ. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Yêu nghề nên được yêu nhau

Làm giáo viên của trẻ TK thì khó mà rời các em dù trong một hoạt động hay khoảnh khắc, thế nên, cuộc trò chuyện của chúng tôi với vợ chồng thầy giáo Nguyễn Trường Phi (28 tuổi) và cô giáo Lê Thị Hà (27 tuổi) bắt đầu vào giữa giờ trưa, khi những đứa trẻ đã đi vào giấc ngủ. Họ là những giáo viên trẻ, song lại là hai giáo viên “lâu năm” trong lĩnh vực dạy trẻ em TK tại Đà Nẵng. Trước đó, lực lượng giáo viên dạy trẻ TK trên địa bàn thành phố được đào tạo chuyên về công việc này còn khá hiếm. Cả hai là những sinh viên thuộc thế hệ đầu của Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khoa Tâm lý – Giáo dục, chuyên ngành Giáo dục đặc biệt (khóa 2005-2009). Thế nên, với 5 năm theo nghề, Phi và Hà có thể được coi là những giáo viên đầu tiên trong giai đoạn Đà Nẵng bắt đầu hình thành các lớp học dành riêng cho trẻ TK.

Lúc ngồi trên giảng đường đến khi cùng vào trường chuyên biệt Tư thục Thanh Tâm (121 Phan Tứ) vào năm 2010, Phi (quê Quảng Trị) và Hà (quê Thanh Hóa) chỉ là những người bạn đơn thuần. Thế nhưng, yêu trẻ con, yêu những em bé TK dần khiến cả hai cảm mến nhau lúc nào không hay, để rồi một năm sau đó, họ trở thành những “đồng nghiệp” đặc biệt của nhau khi có thể cùng đi, cùng về mỗi ngày.

Lớp TK tại Ttrường chuyên biệt Thanh Tâm có 5 giáo viên với tổng cộng 10 học sinh. Trong đó, thầy Phi là giáo viên nam duy nhất của lớp và cũng trở thành “ba” của không ít đứa trẻ vốn gặp nhiều khó khăn trong việc thể hiện tình cảm. Giáo viên nữ theo nghề dạy trẻ là chuyện bình thường, nhưng với giáo viên nam, công việc dạy dỗ trẻ con hóa ra lại có nhiều cái hay. Hà cười thật tươi, chia sẻ về “đồng nghiệp” của mình: “Trong lớp có cô giáo lẫn thầy giáo cũng hay lắm. Thầy có cái uy nhất định nên việc sắp xếp, tổ chức lớp thuận lợi. Bên cạnh đó, một số cháu có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn, thiếu tình yêu thương của người cha nên lên lớp gặp thầy là quấn quýt, hợp tác với thầy hơn với cô”.

Thông thường, thầy Phi sẽ là người đánh giá khả năng và nhu cầu của các em có dấu hiệu TK trước khi được tiếp nhận vào trường. Công việc dù đã lặp lại không biết bao lần nhưng với thầy, đó luôn là một thách thức: “Mỗi trẻ một biểu hiện và nguyên nhân TK khác nhau, nên ngoài kiến thức lý thuyết mình đã được đào tạo thì khả năng nhìn nhận, đánh giá dựa vào kinh nghiệm tiếp xúc với trẻ cũng rất quan trọng. Làm thế nào xác định trẻ bị TK nhẹ hay nặng luôn là câu hỏi khó”.

Hiện tại, công việc chính của cô Hà là dạy trẻ TK tại lớp, còn thầy Phi, ngoài tham gia giáo dục chuyên biệt còn làm công tác hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại cộng đồng ở Quảng Nam và Đà Nẵng.

“Các cháu có rất nhiều tài”

Chia sẻ về lý do chọn nghề dạy trẻ TK, cô Hà vẫn còn đong đầy cảm xúc bỡ ngỡ của những ngày đầu bước chân vào chuyên ngành Giáo dục đặc biệt: “Hồi đó, mình cứ nghĩ học tạm năm đầu, song song ôn thi lại ngành khác vào năm sau. Nhưng hết một năm thì bỗng thấy thích nghề nghiệp tương lai của mình vì cảm nhận đó sẽ là việc làm có ích cho nhiều em nhỏ kém may mắn”. Từ chỗ học tạm tới… học thiệt với Hà gói trọn trong năm học đầu. Và sau đó, hễ có cơ hội tham gia các lớp tập huấn tại Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh là cô lại lên đường tham gia ngay.

Chủ đề trẻ TK luôn có điều gì đó hấp dẫn cô gái trẻ khi càng tìm hiểu, nghiên cứu, càng thấy thích. Qua nhiều năm, Hà lại càng khám phá nhiều điều đáng yêu trong tâm hồn trẻ thơ của các bé TK nhất là cô giáo phát hiện các em có rất nhiều tài năng. “Các em giỏi lắm chứ không chỉ là kém hiểu biết, kém giao tiếp như nhiều người nghĩ. Có em trí nhớ tốt, nhớ số cực giỏi, có em có khả năng “chụp” những hình ảnh nhìn thấy trước mắt và vẽ lại rất đẹp. Nói chung các em đều ẩn chứa khả năng nổi trội ở một khía cạnh nào đó”, cô giáo Hà chia sẻ.

Trong khi đó, chàng sinh viên Nguyễn Trường Phi ban đầu đến với ngành này chỉ với lý do có người quen tư vấn học để dễ… xin việc làm sau khi ra trường. Nhưng cũng như Hà, lúc biết thực chất công việc tương lai, thầy Phi có thể tự tin khẳng định sẽ gắn bó mãi mãi như một tình yêu lớn và một thách thức mà bản thân phải chinh phục. Nói là thách thức bởi giáo trình, phương pháp dạy trẻ TK đến nay vẫn còn mới mẻ và chưa thống nhất. Người dạy giống như những người tiên phong vừa đi vừa học hỏi từng bước. Thế nên, dạy trẻ TK đến nay chưa là công việc dễ dàng xét ở mọi khía cạnh.

Lật lại album ảnh học trò qua các năm, thầy Phi và cô Hà như rạng ngời hạnh phúc khi nhắc nhớ tên, quê quán, hoàn cảnh của những em đã được tái hòa nhập trong 5 năm qua. “Mỗi học trò từ TK, phải học riêng lẻ đến khi có thể ra lớp với các bạn ngoài xã hội là niềm vui không gì sánh bằng. Ba mẹ vui một nhưng giáo viên vui đến 10”, thầy cô Phi-Hà tâm sự.

[nguon]Nguồn:http://www.baodanang.vn/channel/6061/201409/nhu-mot-tinh-yeu-lon-2361182/[/nguon]

Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh – Di tích quốc gia đặc biệt

Vừa qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Quảng Trị tổ chức Lễ đón nhận bằng xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Vinh-Moc

 Trong những năm 1965-1968, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, nhất là vùng đất địa đầu giới tuyến như Vĩnh Linh, người dân nơi đây đã sáng tạo hệ thống 114 địa đạo, làng hầm khắp 15 xã, thị trấn vùng biển để tránh bom đạn quân thù. Trong đó, địa đạo Vịnh Mốc nằm trong quả đồi đất đỏ bazan chạy sát mép biển, cao 28 mét so với mặt nước biển, thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh. Đây là một kỳ tích của nhân dân Vĩnh Thạch và lực lượng vũ trang đã nỗ lực đào và vận chuyển hơn 6.000 m³ đất đá trong 18.000 ngày công gian khổ dưới mưa bom, bão đạn.

Địa đạo là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê đựợc xây dựng và kiến tạo dưới lòng đất ở độ sâu từ 10 mét đến 23 mét. Tổng chiều dài hệ thống đường hầm hơn 2.000 mét. Địa đạo có trục đường chính dài 768 mét, cao từ 1,5 mét đến 1,8 mét, rộng từ 1 mét đến 1,2 mét. Từ trục chính tỏa ra nhiều nhánh, mỗi nhánh thông với một cửa ra vào. Địa đạo có 13 cửa gồm 7 cửa mở ra phía biển và 6 cửa trên đồi đi xuống. Hai bên trục đường, cứ khoảng cách từ 3 mét-5 mét thì khoét lõm sâu vào thành từng ô nhỏ, mỗi ô là một hộ gia đình ăn ở và sinh hoạt. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt với âm mưu tàn phá xóa trắng một vùng đất của đế quốc Mỹ, tính bình quân, mỗi người dân ở đây phải gánh chịu hơn 7 tấn bom đạn. Nhưng sự sống vẫn nảy sinh từ bom đạn, 17 đứa trẻ đã được chào đời ngay trong lòng địa đạo Vịnh Mốc.

trang-vinh-hoang-dia-dao-vinh-moc6

Nhà hộ sinh trong lòng địa đạo Vịnh Mốc

Việc công nhận và xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh hôm nay cùng với việc công nhận hai di tích quốc gia đặc biệt đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải, Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 trước đó là sự kiện quan trọng, thể hiện sự biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với sự cống hiến, hy sinh của đồng bào, chiến sĩ… đã không tiếc máu xương anh dũng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đồng thời ghi nhận nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị lịch sử-văn hóa truyền thống của các thế hệ trước.

[nguon]http://disanxanh.vn[/nguon]

Di tích Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn

Khu di tích lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là một di tích lưu niệm danh nhân của Đảng nằm bên bờ sông Thạch Hãn, thuộc địa phận làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong; cách quốc lộ 1A tại thị xã Quảng Trị khoảng 3km về phía Đông Bắc (đi theo tỉnh lộ 64). Di tích tọa lạc trong khu vực gần chợ Sãi, nơi đây một thời vốn là trung tâm buôn bán tấp nập, nghề tiểu thủ công nghiệp rất phát triển của vùng đồng bằng Triệu Phong. Chính tại ngôi nhà này, đã sinh ra, nuôi dưỡng và hình thành một nhân cách lớn lao của một lãnh tụ cách mạng Việt Nam: Đồng chí Lê Duẩn.

le-duan-04

Di tích Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn

 Đồng chí Lê Duẩn (tên khai sinh là Lê Văn Nhuận) sinh ngày 7/4/1907 tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình nông dân. Thân phụ là cụ Lê Hiệp – một nhà nho như­­ng ở nhà làm nghề mộc. Thân mẫu là bà Võ Thị Đạo ở nhà làm ruộng sinh sống.

Quê nội của đồng chí Lê Duẩn ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Đây là một làng có truyền thống hiếu học, có nhiều ng­­ười  đỗ đạt khoa bảng. Chỉ tính riêng tộc họ Lê Văn của đồng chí Lê Duẩn lúc bấy giờ đã có 5 vị đỗ đạt tiến sĩ và nhiều ngư­­ời đỗ Phó bảng, trong đó có bác ruột của đồng chí Lê Duẩn.

Bích La còn là đất sinh ra nhiều danh nhân có tinh thần yêu nư­­ớc, căm thù giặc, điển hình trong phong trào chống Pháp có cụ Chánh vệ uý Lê Văn Thống (Ông nội của đồng chí Lê Duẩn), cụ đề đốc Lê Văn Tặng (bác ruột của đồng chí Lê Duẩn) đã từng tích cực tham gia phong trào Cần V­­ương chống Pháp.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có bề dày lịch sử và truyền thống yêu nư­­ớc, đặc biệt đư­­ợc mang trong mình dòng máu của một dòng họ vốn có nhiều ng­ư­ời học rộng, tài cao đó là mạch nguồn hun đúc, tạo dựng nên một con ng­­ười – lãnh tụ xuất sắc của Đảng ta, ngư­ời con ­ưu­ tú của quê hương Quảng Trị – đồng chí Cố Tổng Bí thư­ Lê Duẩn.

Lúc còn nhỏ, cậu học trò Lê Văn Nhuận đã biểu hiện sự thông minh và sớm nảy sinh tư­­ tưởng yêu n­ư­ớc, thư­­ơng dân. Từ thời còn đi học cậu đã là ng­­ười chăm học, học giỏi và nổi tiếng về sự thông thái, nói tiếng Pháp thông thạo nên dân  trong vùng quen gọi với cái tên gần gũi là cậu Thông Nhuận. Niên khoá 1919-1920 Lê Văn Nhuận dự thi “Yếu l­ư­ợc” và đổ điểm cao nhất nên đ­ư­ợc lên tỉnh học. Đựơc 1 năm, do điều kiện gia đình quá khó khăn, Lê Văn Nhuận đã phải thôi học và về mở lớp dạy t­ư­ ở trư­­ờng làng mong phần nào phụ giúp gia đình vư­­ợt qua cảnh nghèo khó.

Sống trong cảnh n­­ước mất nhà tan, cuộc sống nhân dân chịu bao đọa đày, lao khổ của ách đô hộ thực dân, phong kiến, ng­­ười thanh niên ch­­ưa tròn 20 tuổi – Lê Văn Nhuận đã sớm ảnh hưởng tư­­ tư­­ởng tiến bộ lúc bấy giờ. Anh quyết định ra đi mang theo hoài bão lớn lao là phải làm sao để những ng­ư­ời dân quê lam lũ của anh thoát khỏi cảnh đói nghèo trầm luân, đ­ể dân tộc và đất nư­­ớc thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của thực dân Pháp xâm l­­ược.

Năm 1927, Lê Văn Nhuận thoát ly khỏi gia đình vào làm kế toán ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng. Năm 1928, Lê Văn Nhuận tham gia nhóm “ái Quốc”. Sau một thời gian hoạt động, Lê Văn Nhuận chủ trương mở rộng nhóm “ái Quốc” thành “ Hội ái hữu” thu hút đựơc khá đông đảo công nhân ở Sở  Hỏa xa Đà Nẵng tham gia. Cuối năm đó, đoạn đ­­ường sắt Vinh – Đông Hà đư­­ợc làm xong nối liền từ Hà Nội đến Đà Nẵng, Lê Văn Nhuận đ­­ược điều ra làm ở ga Hà Nội, lúc chia tay Nhuận đ­ược anh em trong hội “ái hữu” đặt cho tên mới là Lê Duẩn. Trong thời gian này, Lê Duẩn  đã bắt liên lạc với Tân Việt Cách mạng Đảng và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, nhanh chóng trở thành  lớp ngư­­ời đầu tiên đi theo lý t­­ưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê nin mà Nguyễn ái Quốc đã chọn. Tháng 3/1930, từ một thanh niên giàu lòng yêu n­­ước, say mê với lý tư­ởng cách mạng, Lê Duẩn đã trở thành đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Sau đó đ­ược điều về  Thành uỷ Hà Nội rồi Xứ uỷ Bắc kỳ, giữ c­ư­ơng vị Uỷ viên Tuyên huấn Xứ uỷ. Ngày 20/4/1931, cơ quan Xứ uỷ Bắc kỳ bị lộ, đồng chí Lê Duẩn bị thực dân Pháp bắt giam và bị kết án 20 năm tù với tội danh “âm mư­u xúi giục quần chúng nổi loạn” và lần lượt bị giam cầm ở các nhà lao Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo.

le-duan-01

Trong các nhà tù đế quốc, đồng chí Lê Duẩn cùng với các Đảng viên trung kiên đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ giam cầm hà khắc, bảo vệ đồng chí, đồng đội của mình, đồng thời tổ chức việc học tập chính trị, văn hoá, biến nhà tù để quốc thành trường học cách mạng.

Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân ở Pháp và cuộc đấu tranh của nhân dân ta diễn ra mạnh mẽ nên chính quyền thực dân ở Đông Dư­ơng buộc phải trả lại tự do cho khoảng 500 tù chính trị bị giam ở Côn Đảo trong đó có đồng chí Lê Duẩn.

Từ nhà tù trở về, đồng chí Lê Duẩn đã tham gia hoạt động xây dựng phong  trào ở các tỉnh miền Trung, thực hiện chủ trư­ơng của Đảng thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dư­ơng, đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít và chống chiến tranh. Đặc biệt, đồng chí Lê Duẩn đã cùng đồng chí Trần Công Khanh tổ chức thắng lợi cuộc tập hợp quần chúng nhân dân biểu tình “đón Gaudart” ở Quảng Trị để trao bản dân nguyện đòi dân sinh, dân chủ, đòi cơm áo, hoà bình, gây tiếng vang lớn khắp xứ Trung Kỳ.

Năm 1939, đồng chí Lê Duẩn đ­ược bổ sung vào Thư­ờng vụ Trung ­ương Đảng, cùng với các đồng chí Phan Đăng Lư­u, Nguyễn Văn Cừ chuẩn bị văn kiện và chủ trì Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ư­ơng, quyết định thành lập “Mặt trận phản đế Đông D­ương”. Sau hội nghị này, đồng chí Lê Duẩn đ­ược Trung ương Đảng phân công ở lại Sài Gòn để lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nam Bộ.

Ngày 18/1/1940, trụ sở cơ quan Trung ­ương Đảng ở Nam Kỳ bị lộ, đồng chí Lê Duẩn bị bắt giam ở khám lớn Sài Gòn. Cuối năm đó đồng chí lại bị đày ra Côn Đảo (lần2).

Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí Lê Duẩn đư­ợc Đảng và Chính phủ đón về đất liền tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nam Bộ trên cư­ơng vị Uỷ viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư­ Xứ uỷ. Cùng với nhiều Đảng viên cộng sản khác, đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo nhân dân miền Nam và lãnh đạo Cách mạng miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nư­ớc.

Sau năm 1954, đồng chí Lê Duẩn nhận đ­ược Chỉ thị mới của Ban chấp hành Trung ­ương Đảng là tiếp tục ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào Cách mạng trên c­ương vị Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư­ Xứ uỷ Nam Bộ. Từ thực tiễn đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân các tỉnh thành ở Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục suy nghĩ và hình thành b­ước đi cơ bản của sự nghiệp đấu tranh cách mạng đó là phải xây dựng miền Bắc thành hậu ph­ương lớn, từng b­ước đặt nền móng để hình thành con đ­ường vận chuyển xuyên biển từ Bắc vào Nam… Chính trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn bắt tay vào khởi thảo văn kiện quan trọng “Đề cư­ơng Cách mạng miền Nam” và hoàn thành vào tháng 6/1956. Đề c­ương vạch rõ những ph­ương h­ướng cơ bản đúng đắn nhằm thúc đẩy Cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên. Vào những năm tháng vô cùng khó khăn này đồng chí đã sống trong lòng nhân dân, đư­ợc quần chúng bảo vệ, che chở từ các vùng nông thôn hẻo lánh đến trung tâm các thành phố để củng cố cơ sở cách mạng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm l­ược và bè lũ ngụy quyền tay sai.

Năm 1957, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, đồng chí Lê Duẩn bí mật rời miền Nam ra Hà Nội, đánh dấu một chặng đ­ường mới trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Từ đây, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong BCH Trung ­ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn càng có đủ điều kiện để cống hiến năng lực của mình cho Đảng và cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

D­ưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục hoàn chỉnh bản “Đề cư­­ơng cách mạng miền Nam” và đư­ợc BCH Trung ­ư­ơng thống nhất thông qua tại Hội nghị Trung ư­ơng lần thứ 15 khoá II (tháng 1/1959), trở thành đư­ờng lối chiến lược của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở miền Nam.

Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đ­ược bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Bí th­ư thứ nhất và Bí thư­ Quân uỷ Trung ương. Suốt 15 năm trên c­ương vị này, trong hoàn cảnh đất n­ước phải trải qua những thử thách cực kỳ  nghiêm trọng, tình thình quốc tế diễn biến phức tạp, đồng chí Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị và Trung ương Đảng kiên định đư­ờng lối  độc lập tự chủ, tranh thủ sự viện trợ giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, sáng suốt lãnh đạo nhân dân và các lực lư­ợng vũ trang  cả n­ước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc đ­ưa đất n­ước bư­ớc vào con đư­ờng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ sau năm 1975 cho đến ngày qua đời, trải qua hai kỳ Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) và lần thứ V (1982) trên c­ương vị Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Bí thư­ Ban chấp hành Trung ­­ương Đảng cộng sản Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo việc xây dựng đư­ờng lối chung của Cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời định ra chiến lư­ợc kinh tế trong chặng đư­ờng đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Cố Tổng Bí th­ư Lê Duẩn là học trò xuất sắc kế tục trung thành sự nghiệp Cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là ngư­ời chiến sĩ Cộng  sản kiên c­ường, nhà lãnh đạo lỗi lạc và là một t­ư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam.

le-duan-03

 Mấy mư­ơi năm ra đi làm cách mạng, phấn đấu cho những mục tiêu lý t­ưởng cao cả, tình cảm quê h­ương, nơi chôn rau, cắt rốn luôn cháy bỏng  khôn nguôi trong tâm hồn và trái tim đồng chí Lê Duẩn. Như­ng do điều kiện đất nư­ớc còn áp bức, phân ly, quê h­ương bị kìm kẹp khủng bố nên mãi cho đến sau năm 1975 khi Tổ quốc đã hoàn toàn giải phóng, trên cư­ơng vị là ng­ười lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí trở về thăm lại quê nhà, nghiêng mình kính cẩn trư­ớc vong linh tổ tiên và h­ương hồn các liệt sĩ đã hy sinh vì nước vì dân. Chính tại ngôi nhà lư­u niệm này, nhiều lần đã diễn ra những cuộc gặp gỡ thân mật giữa đồng chí với Đảng bộ và nhân dân địa phư­ơng trong tình cảm chan hoà, ấm cúng.

Năm 1986, đồng chí Lê Duẩn qua đời, cùng với nỗi đau thư­ơng, mất mát chung của toàn Đảng, toàn Dân, lãnh đạo tỉnh Bình Trị Thiên và huyện Triệu Hải cùng với nhân dân địa phương đã tổ chức lễ tang đồng chí ngay trong ngôi nhà tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành – nơi đồng chí Lê Duẩn đã đ­ược sinh ra và lớn lên. Từ đó, ngôi nhà này trở thành nhà lư­u niệm cố Tổng Bí thư­ Lê Duẩn.

le-duan-02

 Nhà l­­ưu niệm cố Tổng Bí thư­­ Lê Duẩn nằm trên khuôn viên có diện tích 400m2.. Nguyên tr­­ước đây là nhà và v­ườn của cụ thân sinh Lê Hiệp. Nhà làm bằng gỗ, khá khang trang. Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, ngôi nhà bị đốt cháy nhiều lần, chỉ còn trơ lại nền và khu v­­ườn hoang vắng. Sau khi đất  n­­ước hoà bình thống nhất (1976), huyện Triệu Hải (cũ) cùng bà con quê hư­­ơng đã xây dựng nên một ngôi nhà để vừa làm nhà l­ưu niệm, thờ cúng gia tộc vừa làm nơi nghỉ ngơi cho đồng chí Lê Duẩn mỗi lần về thăm quê. Ngôi nhà đ­ược khởi công xây dựng vào tháng 2/1976 và hoàn thành vào cuối năm đó. Nhà lúc đầu lợp tranh, xung quanh che chắn bằng gỗ ván. Cuối năm 1977, mái tranh bị hỏng nặng do sự tác động của nắng m­ưa, gió bão nên UBND tỉnh Bình Trị Thiên đã cho lợp lại bằng ngói và tồn tại cho đến đầu năm1994. Nhà dài 9m, rộng 4,5m, kết cấu theo dạng nhà băng 3 gian, 2 chái. Bao quanh nhà là 4 hàng rào chè tàu đ­ược cắt tỉa cẩn  thận, phía sau khuôn viên trồng các loại cây cảnh và cây ăn  trái. Ngoài Nhà Lưu niệm còn có Nhà trưng bày, Nhà tưởng niệm và một số công trình phụ trợ khác đã tạo thành Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ngày 29/10/2010 Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch xếp hạng di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 3810/QĐ-BVHTTDL. Khu lưu niệm là nơi giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và là một trong những địa chỉ đỏ về hoạt động giáo dục truyền thống, sinh hoạt văn hóa cho các thế hệ không chỉ riêng đối với Quảng Trị mà còn đối với cả nước…./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Duy Hùng

[nguon]https://dulich.quangtri.gov.vn/[/nguon]